SUỐI NGỔ… ĐÊM VỀ SÁNG
-Tặng
Chư Huynh Tỷ Đệ Muội Sài gòn và Nha trang
-Và
nhớ lại thời còn Oanh vũ, các đoàn sinh Đổng, Sĩ, Ngạc, Kháng, Am,Thiên Định,
Lợi, Đối, Ế, Ngạn, Hoa, Xê, Mùi, Mười, Sẻ, Nga, Hà, Chạy…, Chũng, Hòa, Nậm, Kim
...
-Quí Anh chi Huynh trướng đầu tiên của gđpt Lương điền: bác Khước (GT), anh
Quang, Đích,Tẩn, Khả, Giáo,Thoảng, Đá, Chánh, Quảng, Xiển..., Hòe (Chài), Luận, Dư, Mười, Nồng …
********
Đêm về như mọi đêm, trời đầy sao, không gian yên tỉnh tăng thêm sự huyền
bí của núi rừng… Suối Ngổ về đêm, tiếng đêm, tiếng rì rào của gió núi thổi nhẹ
qua rừng đêm, tiếng chim đêm gọi bạn tình, tiếng côn trùng rả rích như sám hối,
như nguyện cầu mau mau thoát kiếp luân hồi, xa xa, trăng hạ huyền đã lên, ánh
sáng vàng trải dài màn đêm, tiếng đêm, tiếng im lặng của rừng đêm… Ngoài sân
chùa, những căn lều vải của chư huynh đến từ Saigòn …, tiếng võng đưa nhè nhẹ hòa cùng tiếng muổi vo
ve, tiếng mớ ngủ, tiếng ngáy đều như lời kinh cầu bình an trong đêm… Trong Chùa,
trên điện Phật, điện Mẫu, đèn rạng hương chong hoa đẹp, trang nghiêm, thanh
tịnh tột cùng…
Như thường lệ,
khoảng ba giờ sáng, Chú Tư (một Phật tử, Cư sỉ địa phương quyền trụ trì chùa
Sắc Tứ Chí Linh sơn tự này,vì chùa xa thành phố và ở trên núi, muốn lên chùa
phải đi bộ và leo dốc khoảng 4 km đường rừng, Thầy của GH trẻ thì bận học, già
thì không leo núi nổi và phương tiên khó khăn) thức dậy cùng anh Ba và một vài
người khách viếng thăm chùa ở lại qua đêm. Chúng tôi là những môn sinh Khí công từ Nha trang lên đây tìm không gian
yên tĩnh để luyện tập công phu và nhân có chư huynh đệ Khí công Sài gòn ra dã ngoại
tu tập… Sau khi đánh răng, rửa mặt xong, mọi người ngồi quây quần bên chiếc bàn
nhỏ, chú Tư yên lặng pha trà, chế cà phê với động tác khoan thai, gọn nhẹ, chú
chế từ bình ra chén tống và từ chén tống chiết ra từng chung nhỏ… Chú ngửng đầu
lên, vẫn trong yên lặng đưa mắt đưa tay mời mọi người, chúng tôi tiếp nhận lấy…
tiếng lách cách nho nhỏ… yên lặng từ từ, chúng tôi đưa chung trà lên trán khấn
thầm cúng dường chư Phật, Chư Bồ tát … rồi đưa lên môi, ngụm trà đầu tiên trong
ngày, hương trà thơm ngọt, cảm giác lan tỏa thấm đậm lâng lâng như được thắp
thêm sức mạnh gia trì lực của tâm linh. Xong buổi trà đạo mini, mọi người ai lo
việc nấy, chú Tư, anh Ba lo việc hương đăng cho buổi công phu sáng, chúng tôi
cũng sửa soạn công phu, như mọi lần trước, tùy theo trình độ tu tập. Trong khi
chùa thỉnh chuông sáng, chư huynh tọa thiền, và sau đó, khi nhà chùa tụng
kinh công phu sáng thì chúng tôi mỗi nhóm một việc: nhóm luyện Đại bi huyền công, nhóm tập Chuẫn
đề thần công, nhóm tự chửa bệnh bằng khí công hoặc tụng kinh với nhà chùa… Sau
mấy vồ nhập chuông nhè nhẹ, anh Ba cất tiếng xướng bài kệ nguyện chuông:
Nguyện thử chung thanh siêu
pháp
giới
Thiết vi u ám tất giai văn
Văn trần thanh tịnh chứng viên
thông
Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác…
(nhập chuông)
Văn chung thanh phiền nảo khinh
Trí huệ trưỡng, bồ đề sanh
Ly đia ngục, xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật độ chúng sanh…
(nhập chuông)
Tiếp theo là bài kệ cảnh tỉnh:
Văn chung ngọa bất khởi
Hộ
pháp thiện thần sân
Hiện thế duyên phước bạc
Lai thế thọ xà thân…
(bòong….)
(Nghe chuông không ngồi dậy
Hộ
pháp thiện thần hờn
Đời
này ít duyên phước
Đời
sau làm rắn thôi..)
Hồng
chung sơ khấu… bồ tát..
(bòong…)
Bài kệ cảnh tỉnh trên, đã lâu, rất lâu…không
biết anh Ba sưu tầm ở đâu ra bài kệ cảnh tỉnh này, vì theo nghi thức thỉnh Đại
hồng chung (kinh nhật tụng) không có bài kệ nguyện chuông và bài kệ cảnh tỉnh
trên ,bây giờ nghe lại, lòng tôi nao nao…một thời thơ ấu hiện ra …
Lương Phước Tự, ngôi chùa làng tọa lạc phía tả ngạn ngả ba sông Ô Lâu và Thác
ma (nay là chùa làng Lương Điền thuộc xã Hải Sơn, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị),
tuy là chùa làng nhưng có thầy trụ trì và thường có thỉnh Đại hồng chung buổi
sáng và chiều. Làng tôi thời đó có mấy mẫu ruộng tốt cấp cho chùa để
hương khói, dân làng đa số làm nghề nông quanh năm đồng sâu ruộng cạn, đậu mè
khoai sắn. Khi tiếng chuông sáng vang lên, cả làng và phụ cận thức dậy nấu cơm sáng,
đánh trâu ra đồng làm việc và khi tiếng chuông thu không điểm mọi người nghỉ
việc gióng trâu về chuồng… Tiếng Chuông Chùa, tiếng hồn dân tộc chắc phải là
đây…
Hằng năm, chùa làng tôi cứ vào các lễ lớn như lễ kỉ niệm Phật đản mồng tám
tháng Tư (sau này giáo hội đổi lại ngày 15 tháng Tư theo tháng trăng tròn
Vesakt), lễ Vu Lan, lễ Thành Đạo…, chúng tôi là đoàn sinh Oanh Vũ gia đình Phật
Tử Lương Điền thường cắm trại ở lại đêm tại chùa và thường nghe bài kệ cảnh
tỉnh này. Hồi ấy chúng tôi rất sợ làm rắn ở đời sau nên mỗi lần nghe tiếng
chuông đầu tiên là ngồi dậy liền và đọc thầm ba điều luật của Oanh vũ: “Em
tưởng nhớ Phật. Em vâng lời cha mẹ và thuận thảo với anh chị em. Em thương
người và vật” mà các huynh trưởng như anh Quang-liên đoàn trưởng, anh Đích-đoàn
trưởng, chị Hòe (Chài), bác Khước-Gia
trưởng, anh Tẩn, anh Quảng, chị Dư, chị Mười, chị Luận, chị Nồng… thường dạy
khi lễ Phật, lễ đoàn, và sau khi ngủ dậy… Hồi ấy là thế… và qua bao biến động thăng
trầm của đất nước, qua các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, quê hương nằm
trong lửa đạn…
Từ đó và bây giờ, chúng tôi vẫn đến chùa lễ Phật và công phu…. Chúng tôi có nhiều duyên phước gặp được Minh sư và pháp môn Khí công vi diệu này.
Từ đó và bây giờ, chúng tôi vẫn đến chùa lễ Phật và công phu…. Chúng tôi có nhiều duyên phước gặp được Minh sư và pháp môn Khí công vi diệu này.
Nam mô Guru Deva Dakini Hum.
Sau
thời công phu thỉnh chuông, có nhiều huynh đệ đã ngồi trước điện Phật, điện
Mẫu, đang hành thiền… Đến thời công phu sáng tụng chú Lăng nghiêm của một Phật
tử đến viếng chùa (Chú Tư dạo này có tuổi, mỗi khi trở trời hơi gió là đau nhức
lưng nên có người viếng chùa biết tụng kinh ở lại đêm thay chú Tư làm Phật sự
này). Tiếng tang mõ đều đúng qui cách nhà thiền, có pháp ngữ, có ê a tán tụng theo
âm điệu cung đình…
Nam mô Lăng nghiêm hội thượng Phật
Bồ tát…
Diệu
trạm Tổng trì bất động tôn…
…
hổ hồng đô lô ung phấn ta bà ha…
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khai thị chơn
tâm cho ngài A Nan và Đại chúng trên hội Lăng nghiêm, ngài An Nan đã liễu ngộ diệu
chơn Tâm liền quì xuống đọc lời phát nguyện trên, sau này Chư Tổ lấy lời phát
nguyện này làm bài tựa cho thời công phu sáng… Tiếng tụng kinh trầm hùng tha
thiết bao hàm ba đức Bi Trí Dũng… Chúng tôi thường tâm niệm:
Thuấn nhã đa tánh
khả tiêu vong
Thước Ca Ra Tâm vô động chuyển
(Tánh hư không kia-
có thể tiêu diệt
Tâm
bền chắc này-không bao giờ lay chuyển)
Có bao giờ chúng ta tự hỏi Tâm chúng ta
đã bền chắc chưa? Tình yêu và xây dựng quê hương bằng mọi phương tiện mà mình có…
Người đi xa, người ở lại, kẻ mới đến, chúng tôi nghĩ rằng dù xa ngái, dù ở lại,
chúng ta có nơi chôn nhau cắt rốn hào hùng, đã từng chịu mưa dầm suốt tháng, nắng
lửa gió lào, đã quen ăn mắm ăn cà, khoai nưa, chột môn, đọt đậu, bông bí, rau
trơơng, những buổi chiều mưa dông câu cá, những ngày lụt lội vớt rều, những hội
hè đình đám, họ làng giáp thôn mồ mả, những Mô súng, Bải voi, Băng cù, Hà mụ
lịnh, Cồn mả, Bàu phoeo…, biết bao và biết bao…, cả một thời thơ ấu, sinh ra và
lớn lên, như con chim non đủ lông đủ cánh bay đi…trời rộng sông dài…
Đêm bắt đầu về sáng, các căn lều vải
của chư huynh đệ Sài gòn đã gom lại phía gốc xoài… Trên sân Chùa, tất cả chư
huynh, tỷ đệ muội đang yên lặng tập Dịch Cân Kinh, Nội gia Thái Cực quyền, Thiết
phiến công… trước miếu Ngũ vị Tiên cô. Bình minh đang thức dậy, những tia nắng
hồng phủ ấm núi đồi tranh, bên vách núi đá cao, hàng cây đeo bám lơ lững tạo
thế huyền nhai đu đưa theo gió sớm…, đàn chim phướng đuôi dài bay lượn đón chào
ngày mới… Trong màn sương mờ, đoàn người gồng gánh lên chùa và cũng có vài
người sửa soạn xuống núi… Nắng đã lên, chư huynh đã tập xong công phu buổi
sáng. Bên linh tượng Bồ tát Quán Âm và miếu ông Hổ, chúng tôi lại bắt đầu buổi
trà đạo…thêm chuyện, thêm duyên…
Mạn Đà
Suối
Ngổ, Mùa Vu Lan 2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét