Ban Quản Trị
Thứ Ba, 29 tháng 3, 2022
Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2022
XUÔI DÒNG Ô LÂU
Theo cuốn “Địa chí Thừa Thiên Huế”: “Sông Ô Lâu bắt nguồn từ vùng núi Tây Trị Thiên ở độ cao tuyệt đối xấp xỉ 905m, có chiều dài dòng chính 66 km, diện tích lưu vực 900km2 , độ dốc trung bình lưu vực trên 13m/km (ở phạm vi đồi núi trên 19m/km). Thoạt đầu sông chảy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, đến Phò Trạch chuyển hướng Đông Nam - Tây Bắc cho tới Phước Tích (chỗ hội lưu với sông Thác Ma), sau đó chuyển hướng Tây Nam - Đông Bắc cho đến Vân Trình lại chuyển hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ vào phá Tam Giang ở cửa Lác”.
Cầu Hòa Xuân bắc qua sông Ô Lâu |
Dòng sông Ô Lâu xanh biếc
Sông Ô Lâu đoạn từ Phước Tích đến
Vân Trình nước luôn đầy và trong xanh; bờ bên này là những làng quê của Thừa
Thiên bên kia là những làng quê Quảng Trị. Nhưng có một đoạn, một xóm dân cư của
Quảng Trị lại lạc qua bên này sông và ngược lại có một xóm của Thừa Thiên lại ở
bên đất Quảng Trị. Tương truyền, thời đầu nhà Nguyễn sông Ô Lâu đã nắn dòng nên
mới có sự hoán đổi địa lý thú vị này.
Hai bên bờ Ô Lâu là quê hương của
nhạc sĩ Trần Hoàn (Hải Lăng) và nhà thơ Thanh Hải (Phong Điền). Điều thú vị là
nhạc sĩ Trần Hoàn đã phổ nhạc rất thành công bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà
thơ Thanh Hải. Tất nhiên những câu thơ đẹp: “Mọc giữa dòng sông xanh - Một bông
hoa tím biếc- Ơi con chim chiền chiện- Hót chi mà vang trời” là viết về sông
Hương nhưng mỗi lần giai điệu bài hát này vang lên trong những ngày xuân là tôi
cứ miên man về dòng Ô Lâu nơi đã tắm mát tuổi thơ của hai nghệ sĩ...
Trên con đường thiên lý Bắc Nam,
thì dòng sông Ô Lâu đã chứng kiến cảnh Huyền Trân công chúa bái biệt nước non Đại
Việt để ngàn dặm ra đi về làm dâu Chiêm Quốc. Bây giờ, những ngư dân bên dòng Ô
Lâu trong những lần đánh cá vẫn thường nhặt được những hiện vật đồ gốm cổ dưới
lòng sông này. Làng Phước Tích còn gọi là làng Gốm bởi vì nghề gốm chính là nghề
đã làm giàu cho người dân làng quê này. Kể từ khi được giáo sư Hoàng Đạo Kính
phát hiện, cứ 2 năm một lần, làng cổ Phước Tích mở hội để vui cùng Festival Huế.
Đúng như tên gọi của lễ hội là “Hương xưa làng cổ”, những người khách dù gần
hay xa đều đến với ngôi làng hơn 500 tuổi này để tìm chút hương xưa của làng
quê Việt vẫn hiện diện còn khá vẹn nguyên bất chấp những biến động của thời
gian...
Điều đặc biệt mà mỗi du khách đến với
làng cổ Phước Tích cảm nhận được là mỗi một người dân làng Phước Tích đều có thể
kể rành mạch đến lịch sử hình thành và phát triển của ngôi làng thân yêu cũng
như những ngôi nhà rường kiểu Huế của mình.
Có lẽ những ngã ba sông đều đẹp cả.
Sông Ô Lâu cũng vậy, ngã ba sông là một bức tranh lớn với những lau lách, ruộng
lúa và những nhánh sông nhỏ. Sông Ô Lâu đoạn này tạo thành một khúc quanh mềm mại
ôm lấy những bờ mương, bờ cừ của làng Vân Trình rồi xuôi thẳng một dòng qua
Thanh Hương, Vĩnh Xương, Kế Môn, Đại Lược, Thế Chí bên kia sông; hay Vân Trình,
Ma Nê, Lương Mai, Chí Long bên này sông trước khi sông rẽ nhánh ở cửa Lác hòa
mình vào dòng mênh mông của phá Tam Giang... Những địa danh hai bên bờ Ô Lâu
cũng đã sinh ra những danh nhân kiệt xuất và hiện lăng mộ của các danh nhân
đang là những di tích văn hóa lịch sử trên chính quê hương như lăng mộ Trần Văn
Kỷ ở làng Vân Trình, lăng mộ Nguyễn Tri Phương ở làng Chí Long hay lăng mộ Nguyễn
Lộ Trạch ở làng Kế Môn...
Phá Tam Giang |
Bình yên phá Tam Giang
Theo một nhà nghiên cứu lịch sử cho
biết, tên gọi phá Tam Giang không phải xuất phát từ việc hợp lưu 3 dòng sông
Hương - Bồ - Ô Lâu mà lâu nay không ít người nhầm tưởng. Thực ra gốc tích của
tên gọi này chính là do dòng Ô Lâu khi đổ ra phá ở cửa Lác đã chia thành 3
nhánh sông nhỏ, gọi là Tam Giang…
Bạn tôi, một người đam mê sông nước
đã chụp rất nhiều ảnh về cửa Lác, chính là cửa sông Ô Lâu chảy ra phá Tam
Giang. Qua thời gian, bây chừ chỉ còn lại 2 nhánh sông đổ ra phá. Có lẽ cái tên
cửa sông này là cửa Lác vì ở đây loài cỏ lác mọc um tùm. Chim chóc bay về trú
ngụ dày đặc trên những thảm cỏ lác xanh miên man hai bên biền sông, biền phá.
Mỗi lần đi trên chuyến đò dọc chiều
ngang qua cửa Lác thấy từng đàn chim sải cánh rập rờn giăng kín cả mặt nước tìm
tôm cá. Ngư dân sống bên con phá gần cửa Lác có nghề cắm câu không phải để bắt
cá mà là bắt chim, chỉ qua một đêm là có đầy cả lồng chim to mang đến chợ quanh
vùng để bán.
Dòng sông Ô Lâu hiền hòa ôm ấp tuổi thơ |
Hồi trước khi hệ thống đập cửa Lác chưa được xây dựng kiên cố, mấy xã trong vùng thường tổ chức đi làm thủy lợi đắp đập cửa Lác để chống mặn. Rồi công trình thủy lợi cửa Lác được xây dựng kiên cố hoàn thành, kết hợp làm cầu giao thông nối những vùng quê hai bên bờ phá. Hai nhánh sông nhỏ chừ có hai cây cầu nhỏ bắc ngang. Còn nhánh sông thứ ba, theo những ngư dân ở đây thì do thời gian bồi lấp nên đã thành những ô ruộng biền ven sông. Sau cầu Thuận An, thì đây là chiếc cầu thứ hai bắc qua phá Tam Giang rồi sau đó không lâu mới có những chiếc cầu lớn hiện đại như cầu Trường Hà, cầu Ca Cút. Chỉ có điều, cầu cửa Lác là cầu trên đập thủy lợi nên hẹp chỉ dành cho người đi xe máy, xe đạp hay đi bộ còn ô tô thì không qua được…Cửa Lác cũng là một điểm ngắm phá Tam Giang rất đẹp, nhất là vào những buổi sáng sớm hay chiều tà.
Qua cầu cửa Lác bữa ni không còn thấy chim chóc bay kín cả một vùng sông nước như năm nào, mà chỉ còn lơ thơ mấy chú cò, chú vạc lạc bầy đang kêu tìm bạn. Nhưng cửa Lác còn đó một món đặc sản, đó là con trìa nằm dưới đáy phá. Trìa có nhiều trên phá Tam Giang, nhưng ở cửa Lác là ngon nhất bởi vì đó là nơi giao thoa giữa hai làn nước ngọt và nước lợ…
Theo báo Du Lịch
Nguồn: quehuongonline.com
SÔNG Ô LÂU HUYỀN THOẠI - Đoàn Hạ
Sông Ô Lâu huyền thoại
(Sông còn tên gọi khác là sông Thu Rơi)
Tác giả: Đoàn Hạ
LàngƯuĐiềm.com - www.languudiem.com
Sông Ô Lâu bắt nguồn từ thượng
nguồn đỉnh núi Truồi hùng vỉ, có độ cao tuyệt đối xấp xỉ 905m, chảy lượn quanh
co giữa núi rừng Trường Sơn, chảy xuôi về Phò Trạch, rồi chuyển hướng tây bắc,
ngã rẻ chổ hội lưu với sông Độc còn gọi là sông Mỹ Chánh, tạo nên dòng sông Ô
Lâu huyền thoại, chảy êm đềm trong vắt đầy thơ mộng, rồi chảy về hai làng Câu
Nhi và Phước Tích, gặp sông Thác Ma, chảy xuôi về Vân Trình, chảy ra phá Tam
Giang, ghé qua cửa Lác và ra biển Đông.
Thế nhưng, hầu hết các con sông đan nối vào nhau hết sức
phức tạp và độc đáo, thành một màng lưới chằng chịt, từ sông Ô Lâu đã liên kết
đến phá Tam Giang, đến sông Hương, qua sông Lợi Nông, qua sông Đại Giang, sông
Hà Tạ, sông Cống Quan, sông Truồi, sông Nông, xuyên qua đầm Cầu Hai, tất cả nằm
trong hệ đầm phá Tam Giang và đầm Cầu Hai, ngoài ra sông Ô Lâu còn liên kết với
các trằm bàu tự nhiên. Vì thế, sông Ô Lâu là dòng sông tuyệt đẹp của vùng đất
miền Trung, dòng sông uốn lượn chảy êm đềm, mát dịu, mềm mại như dãi lụa. Tên
sông được ca ngợi, Trăm năm còn lỗi hẹn hò, Cây đa bến cộ con đò khác đưa. Câu
ca dao sinh ra trên những bến sông từ cái thuở sĩ tử xứ Đàng Ngoài muốn vào
kinh ứng thí phải vượt trường giang, bên triền sông này đã sản sinh ra nhiều
nhân tài cho đất nước, trãi qua nhiều thế hệ, về danh nhân như Cụ Bùi Dục Tài
người đổ Tiến sỉ thời Vua Lê Hiển Tông, đây là vị tiến sỉ khai hoa của xứ Đàng
Trong, Ông được thăng quan đến chức Tả thị lang Bộ Lại và Cụ Bùi văn Tú giử chức
thượng thư bộ lại triều Tây Sơn hai vị được tôn vinh “kinh bang tế thế” thượng thư triều Nguyễn có Nguyễn Tăng Doãn
và ngài tướng công Phạm Duyến, ủy lạo sứ Nguyễn Chánh, Mậu hóa hầu Trần Quý
Công, quan tướng Triều Mạc Hoàng Bôi, thời
Vua Tự Đức có cụ Hồ Oai quyền chưỡng vệ Long võ quân, có thành tích bão vệ Vua
Tự Đức trong kỳ nổi loạn Chày vôi của hai anh em Đoàn Trung, Đoàn Trực, và nhiều vị tiển sỉ hiện nay…đã sống và uống
mạch nước nguồn sông Ô Lâu như một huyền thoại. Ngoài ra hai bên triền sông ấy
có làng cổ Phước tích 500 năm tuổi, bên kia sông có làng cổ Hội kỳ 500 năm tuổi, nhưng chưa được công nhận,
xuôi về có làng (tiến sỉ) Câu Nhi, ở làng Mỹ Xuyên có nghề điêu khắc, làng Ưu
điềm có di tích Chăm-Pa nổi tiếng…
Trong dân gian còn lưu truyền nhiều giai thoại
về con sông này. Chuyện kể rằng: Vào đời vua Trần Anh Tông, đầu tháng 6 năm Bính Ngọ ( 1306) vua Chiêm Thành Chế Mân (Jaya Simhavarman III
) dâng hai châu Ô – Rí về sau đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu làm sính lể để
cưới công chúa Huyền Trân và để giử hòa khí hai nước, tránh nạn binh đao và mở
mang bờ cõi. Trên con đường thiên lý Bắc Nam, thì dòng sông này đã chứng kiến cảnh
Huyền Trân trên đường bái biệt nước non Đại Việt để ngàn dặm ra đi về làm dâu xứ
Chiêm Thành, được phong tước Hoàng Hậu Paramec-varti, và con sông Ô Lâu này tiêu biểu cho châu Ô, sử
sách còn ghi lại.
Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy
mươi
Để hôm nay dòng sông như chảy vào lòng người,
vổ về những con đò nhỏ và nghiêng mình cho lủy tre làng soi bóng nước. Con
sông, bến Đò, bãi tắm đã thu hút tâm hồn bao thế hệ trôi qua, mỗi thế hệ có những
cuộc chơi riêng, họ vui đùa trên sóng nước mênh mông, cách ứng xử cũng đầy hồn
nhiên. Dòng Ô Lâu quê mẹ vẫn giữ được nét xưa vốn có, vẫn một màu xanh thắm của
thời gian, vừa sâu lắng về thân phận mỗi con người , mỗi dòng sông trong những
dòng sông dọc dài đất miền Trung nắng dãi mưa dầm đều mang một nét đẹp riêng,
song tất cả các dòng sông đều chảy ra biển xanh lộng gió, chỉ đến đầu tháng bảy,
những cơn mưa bất chợt hiện về, báo hiệu một mùa mưa lủ đến, những trận mưa xối
xả mấy ngày đêm từ thượng nguồn đổ về, dòng sông như gầm réo ầm ào, chao đảo dật
dờ, nổi trôi, nước bắt đầu chuyển sang màu bạc của lớp đất phù sa, cá tôm từ
thượng nguồn xuôi nước đổ về, các loài cá từ phá Tam Giang, các nhánh sông liên
kết chạy ngược lên theo con nước, mang đến cho dòng sông nhiều chủng loại cá
phong phú và hết sức đa dạng, ở hệ thống sông Ô Lâu hiện nay được xác định có 109 loài, 76 giống, với 31 họ thuộc 11 bộ
khác nhau. Đã xác định được 16 loài có giá trị kinh tế cao, 5 loài cá quý hiếm
được ghi vào sách đỏ Việt Nam 2007, cả 5 loài đều được xếp vào bậc VU (
vulnarable) . Khi đã trút hết những trận mưa kéo dài, rồi dòng sông trở nên hiền
hòa, trả về khoảng lặng yên, trả về làn nước trong xanh, bởi dòng sông có nhiều
truông cát nên nước luôn trong xanh mà ngọt quanh năm, sông chảy trong dòng sống
và hòa nhịp thở cùng người. Sông lấp lánh mạch nguồn thấm đẫm.
Với riêng tôi, hơn nửa đời phiêu dạt, tôi có dịp ghé thăm nhiều con sông khác trên các nẻo đường từ miền Nam ra Trung, cũng như những con sông khác trên mọi miền tổ quốc, mỗi con sông đều có vẻ đẹp riêng và ít nhiều đã gắn bó với tôi nhiều kỷ niệm. Dòng Ô Lâu đã neo đậu nơi tôi biết bao nỗi niềm tha thiết, Nhưng mãi đến tận hôm nay, sau hai mươi năm xa cách, về lại nơi bến Huyện cũ, thôn Tư Ưu Điềm, tôi ngồi khỏa tay vào dòng nước trong xanh, để cảm nhận một dòng sông và thầm cám ơn thôn xóm hiền hòa bên triền sông Ô Lâu huyền thoại này đã gắn liền khúc ruột được chắt chiu từ một ký ức xa thẳm, không ai có thể chia lìa, cũng chính nơi đó, đã đánh thức bao nỗi hoài cảm, tưởng đã mất đi trong tâm hồn.
ĐOÀN HẠ
www.languudiem.com
QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1885)
Tác giả:
NGUYỄN THỊ MINH THIỆN
Trường THPT Quang Trung – Tây Ninh
THÁI QUANG TRUNG
Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Công cuộc khẩn hoang thành lập làng xã là một trong
những vấn đề rất được nhiều nhà nghiên cứu, quản lý và các làng xã quan tâm.
Bài viết này xin đề cập đến sự thành lập một số làng xã ở huyện Hải Lăng dưới
triều Nguyễn (1802-1885). Qua đó, rút ra một số đặc điểm về quá trình thành lập
làng xã trong thời kỳ này.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Làng xã Việt Nam - một thực thể xã hội, một đối tượng khoa học
từ lâu được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong thời điểm
hiện nay, khi khoa học Lịch sử đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, thì
hệ thống làng xã giúp chúng ta đi từ những hiểu biết cụ thể, từng khía cạnh của
đời sống xã hội để từ đó có thể rút ra những nhận xét về tất cả các lĩnh vực
trong quá khứ.
Lịch sử mỗi làng xã là bộ phận lịch sử dân tộc. Làng xã là
cơ sở bền vững bảo tồn sức sống và nền văn hoá của dân tộc. Từ thuở ban đầu dựng
nước, cư dân Bách Việt đã dần dần tạo nên những đơn vị làng đầu tiên. Đó cũng
chính là địa bàn tụ cư của các cộng đồng cư dân nông nghiệp. Dưới chế độ phong
kiến, làng xã là đơn vị hành chính cơ sở của quốc gia, có thể thấy làng xã
chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu làng xã không
chỉ đáp ứng được yêu cầu của khoa học lịch sử mà còn góp phần tìm hiểu những
giá trị tinh hoa văn hoá truyền thống của làng quê để bảo tồn đồng thời xoá bỏ
những hạn chế vốn có của nó.
Hải Lăng là huyện đồng bằng nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Trị;
là quê hương có nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời. Nơi đây nổi tiếng là mảnh
đất giàu truyền thống yêu nước, “vựa lúa” của Quảng Trị và là nơi có đời sống
văn hóa phong phú.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, với đức tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo đã hình thành cho con người Hải Lăng một bản lĩnh không chịu khuất phục trước khó khăn, gian khổ để vượt lên, chiến thắng thiên tai, địch họa, khai sơn phá thạch, thau chua rửa mặn dần dần hình thành nên những xóm làng như ngày nay. Trong đó, có nhiều làng xã được hình thành dưới thời nhà Nguyễn (1802-1885) cần được nghiên cứu, lý giải về sự hình thành với các đặc điểm của nó.
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 04(40)/2016: tr. 81-90
CÁC LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG RA ĐỜI TRƯỚC NĂM 1802
Hải Lăng vào buổi bình minh của lịch sử dân tộc, dải đất này
là phần đất của bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang.
Trong thời kì Bắc thuộc, nhà Hán cai trị, địa bàn Hải Lăng
thuộc quận Nhật Nam, nhưng đến đời Đông Hán, năm 192 một lãnh tụ nhân dân bộ lạc
Dừa ở phía Bắc đã lãnh đạo nhân dân lật đổ ách đô hộ nhà Hán, thành lập tiểu quốc
Lâm Ấp. Đến thế kỉ IV, hai tiểu quốc Lâm Ấp và Panduranga đã hợp nhất, hình
thành vương quốc Chămpa. Lợi dụng sự suy yếu của chính quyền phong kiến Trung
Quốc đô hộ, các thế lực của Chămpa mở rộng địa bàn ra tận Hoành Sơn, vùng đất Hải
Lăng thuộc đất nước này đến đầu thế kỉ XIV.
Năm 1306, cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua Chế
Mân với sính lễ là châu Ô và châu Lí (Rí). Vua Trần cho đổi tên làm châu Thuận,
châu Hóa và sáp nhập vào bản đồ Đại Việt. Hải Lăng thuộc châu Thuận, lúc bấy giờ
có tên là An Nhơn. Một lần nữa cư dân người Việt lại vào đây định cư, mở đầu
quá trình hình thành làng xã và thành lập đơn vị hành chính.
Từ cuối thế kỉ XIV, vương triều Trần suy yếu, quan hệ Việt –
Chăm căng thẳng. Vùng Thuận Hóa trong đó có Hải Lăng trở thành bãi chiến trường
của hai thế lực, làng mạc bị tàn phá và hoang vu trở lại.
Năm 1401, Hồ Quý Ly đưa quân vào đến Nam Thuận Hóa, thành lập
các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Nhưng nhà Hồ (1400-1407) tồn tại không bao lâu,
nước ta rơi vào ách đô hộ nhà Minh nhưng nhà Minh chưa thể đặt chính quyền cai
trị lên vùng đất này. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đưa quân tiến đánh Chăm Pa, mở
rộng biên giới đến phía Bắc đèo Cù Mông. Nhà vua xuống chiếu đưa dân Việt vào
sinh sống, định cư ở đây.
Dưới triều Hậu Lê, việc khẩn hoang lập làng ở vùng đất Thuận
Hóa nói chung, Hải Lăng nói riêng rất được chú ý. Cũng vào thời gian này, trên
địa bàn Hải Lăng hàng loạt làng xã được thành lập, định hình một cách căn bản.
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết: “…Xét Thiên Nam dư hạ tập của bản triều
có chép rằng trong đời Hồng Đức định bản đồ… Phủ Triệu Phong 6 huyện 2 châu là:
huyện Kim Trà 8 tổng 71 xã, huyện Đan Điền 8 tổng 65 xã, huyện Hải Lăng 7 tổng
75 xã...” [7, tr. 54].
Tuy nhiên, do đây là vùng đất xa xôi với triều đình trung
ương, việc quản lí khó khăn, cho nên đến giữa thế kỉ XVI, khi Dương Văn An viết
Ô Châu cận lục vẫn gọi vùng đất này là “Ô Châu ác địa”, cư dân còn thưa thớt.
Theo tác phẩm này, vùng đất Hải Lăng thuộc phủ Triệu Phong có 49 xã: An Thơ,
Vĩnh Hưng, Văn Quỹ, Câu Nhi, Hà Lộ, Lãng Uyên, Đoan Trang, Diên Sanh, Câu Hoan,
Trà Trì Thượng, Trà Trì Hạ, Lam Thủy, Mai Đàn, Hương Lan, Hương Liễu, Long Đôi,
Thái Nại, An Khang, Hoàng Xá, Xuân Lâm, Tích Tường, Như Lệ, Thạch Hãn, Cổ
Thành, Thương Mang, Hoa Ngạn, Phù Lưu, Nha Nghi, Hữu Điều, Hoa La, An Lộng, Hà
Mi, Nại Cửu, Dương Lệ, Dương Chiếu, An Toàn, Đồng Giám, Dã Độ, An Dã, Quảng
Đâu, Đâu Động, Phúc Lộc, Đại Bối, Tiểu Bối, Đại Bị, Tiểu Bị, An Hưng, Hà Bá,
Đâu Kênh. [2, tr. 56]
Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận
Hóa, công cuộc khẩn hoang xứ Thuận Quảng được đẩy mạnh. Các chúa Nguyễn đã biến
vùng đất “Ô Châu ác địa” thành vùng đất trù phú, thủ phủ của họ Nguyễn ở Đàng
Trong. Số làng xã tăng lên không ngừng. Theo Phủ biên tạp lục ta biết huyện Hải
Lăng, phủ Triệu Phong có 5 tổng (67 xã 6 phường 4 thôn 2 tộc):
“Tổng Hoa La, 19 xã 2 phường 1 thôn: Hoa La, An Lộng, Đâu
Kênh, Hồng Khê, Nại Diên, Tả Hữu, Thạch Hãn, An Tiêm, Cổ Thành, Cổ Bưu, Hà My,
Bố Liêu, Phù Lưu, Dư Triều, Hậu Lễ, Long Hưng, Vệ Nghĩa, Tích Tường, Như Lệ,
Xuân An, Vạn Long, Nà Nẫm.
Tổng An Thư, 5 xã 1 thôn: An Thư, Mỹ Chánh, Câu Nhi, Vĩnh
Hưng, Văn Quỹ, Hội Kỳ.
Tổng An Dã, 21 xã 1 phường: An Dã, Hữu Điều, An Trung, Đại
Hòa, Quảng Điền, Vũ Thuận, An Lệ Nhị Giáp, Giáo Liêm, Phụ Tài, Thanh Liêm, Quảng
Lượng, Hiền Lương, Dương Lộc, An Toàn, Phan Xá, Trúc Đăng.
Tổng Cu Hoan, 6 xã 1 phường 1 thôn 2 tộc: Câu Hoan, Diên Sinh,
Trường Sinh, An Phúc, Hà Lỗ, Hà Lộc, Lương Phúc, Miễn Trạch, Câu Hoan, Đỗ
Phùng.
Tổng An Khang, 16 xã 2 phường 1 thôn: An Khang, Đại Nại, Trà
Lộc, Lam Thủy, La Duy, Hương Vận, Trà Trì Thượng, Anh Hoa, Tam Hữu, Mai Đàn,
Duân Kinh, Thi Ông, Thượng Xá, Trâm Lý, Xuân Lâm, Mai Lộc, Phú Xuân, Mai Hoa,
Mai Đàn thượng thôn” [7, tr.101].
Dưới thời Lê – Trịnh chiếm đóng, rồi đến Vương triều Tây
Sơn, công cuộc khẩn hoang vẫn được tiếp tục nhưng do nguồn tư liệu còn hạn chế
nên số lượng làng xã tăng lên chưa khảo cứu được.
SỰ THÀNH LẬP LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802 – 1885)
Năm 1802, sau khi đánh bại Vương triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh
lên ngôi hoàng đế, hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập nên Vương
triều Nguyễn.
Nguyễn Ánh lấy hai huyện Hải Lăng và Đăng Xương của phủ Triệu
Phong hợp với huyện Minh Linh của phủ Quảng Bình để lập dinh Quảng Trị. Từ đó,
huyện Hải Lăng chính thức thuộc địa phận Quảng Trị. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827)
đổi dinh Quảng Trị thành trấn Quảng Trị, năm thứ 12 (1831), trấn Quảng Trị đổi
thành tỉnh Quảng Trị, huyện Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị. Năm Minh Mạng thứ 17
(1836) cắt tổng An Nhơn và ba thôn Phương Lang, Phú Hải, Thuận Đầu (tổng An
Lưu) về huyện Hải Lăng. Cắt Tổng An Dã và 2 làng Tam Hữu, Anh Hoa (Tổng An
Thái) và phần lớn Tổng Hoa La (trừ Trí Lễ, Thạch Hãn, Long Hưng, Tích Tường,
Như Lệ) nhập về huyện Đăng Xương. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837) dời huyện lỵ Hải
Lăng từ thôn An Tiêm đến thôn Trí Lễ. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) lại dời huyện lỵ
đến thôn Diên Sanh. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) lấy ba thôn, phường của huyện Hải
Lăng hợp với 29 xã, thôn của ha huyện Đăng Xương và Địa Linh lập thành tổng Cam
Đường đặt thuộc huyện Thành Hóa do phủ Cam Lộ kiêm lý. Năm Tự Đức thứ 6 (1853),
nhập Quảng Trị và Thừa Thiên, lập đạo Quảng Trị, giải thể phủ Triệu Phong, giảm
viên tri huyện Hải Lăng và Đăng Xương, giao công việc của huyện cho đạo kiêm
lý. Năm 1876 lập lại tỉnh Quảng Trị gồm hai phủ Triệu Phong, Cam Lộ và 4 huyện,
trong đó huyện Hải Lăng vẫn giữ tên cũ. Đặt lại huyện Hải Lăng do phủ Triệu
Phong thống hạt như trước.
Trong tác phẩm Đồng Khánh Dư địa chí (1886-1888) huyện Hải
Lăng gồm 4 tổng:
Tổng An Thái (24 xã, phường): Xã An Thái, xã Thượng Xá, xã Đại
Nại, xã Long Hưng, xã Chí Lễ, xã Trâm Lý, xã Hương Vận, xã Trà Lộc, xã Trà Trì,
xã Duân Kênh, xã La Duy, xã Thi Ông, xã Lam Thủy, xã Cổ Bưu, xã Thạch Hãn, xã
Tích Tường, xã Như Lệ, xã Mai Đàn, xã Xuân Lâm, phường Phú Xuân, phường Nà Nẫm,
phường Trinh Thạch, phường Mai Lĩnh, phường Sái Xuân.
Tổng Câu Hoan (9 xã, thôn, phường): Xã Câu Hoan, xã Diên
Sinh, xã Trường Sinh, xã Hà Lộc, xã Lương Điền, thôn Trường Phước, thôn Thuận
Nhân (Nhơn), xã Hà Lỗ, phường Xuân Lộc.
Tổng An Thư (6 xã, thôn): Xã An Thư, xã Văn Quỹ, xã Câu Nhi,
xã Hội Kỳ, xã Hưng Nhân, thôn Mỹ Chánh.
Tổng An Nhân (23 xã, thôn, phường): Xã An Nhân, xã Xuân
Viên, xã Đông Dương, xã Diên Khánh, xã Kim Giao, xã Kim Lung, xã Đan Quế, xã Hội
An, xã Đa Nghi, xã Cỗ Lũy, xã Phương Da, xã Ba Thâu, xã Phú Hải, xã Phú Kênh
(Kinh), xã Phúc Điền, xã Trung Đan, xã Thâm Khê, xã Thuận Đầu, xã Mỹ Thuỷ, xã
Trung An, phường Tân An, phường Tân Hội, phường Thượng An. [8, tr.1383-1385]
Do nhiều lần thay đổi hành chính, điều chỉnh địa phận nên có
nhiều xã, thôn trước kia thuộc Hải Lăng nay thuộc về huyện Triệu Phong (Đăng
Xương) và ngược lại. Căn cứ vào danh sách các xã thôn huyện Hải Lăng hiện nay,
đối chiếu với các xã thôn trong Phủ biên tạp lục và Đồng Khánh Dư địa chí ta thấy
có 5 xã, thôn được thành lập đó là: Thuận Nhơn, Trường Phước, Xuân Lộc, Phước
Điền, Trung An. Nhưng qua thực tế tìm hiểu ở địa phương thì ta thấy làng Phước
Điền (Phúc Điền) đã ra đời vào khoảng thế kỉ giữa XVI, làng Trung An ra đời vào
khoảng thế kỉ XVIII; một số làng như Phú Long, Như Sơn, Tân Điền, Lương Chánh
không được Đồng Khánh Dư địa chí đề cập đến. Quá trình thành lập các làng xã
này như sau:
* Thôn Thuận Nhơn: ra đời vào khoảng những năm 20-30 của thế
kỉ XIX cùng với sự ra đời của sông đào Vĩnh Định (1825). Sông Vĩnh Định ra đời
không chỉ tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận lợi, cung cấp nước cho nông
nghiệp mà nó còn đánh dấu sự ra đời một số đơn vị hành chính mới như làng Thuận
Nhơn.
Thuận Nhơn thành lập từ việc mua đất của làng Thi Ông và Câu
Hoan, đó là hai vùng đất: xứ Già Giàu và xứ Cồn Đống - Cồn Miếu.
Trước hết, nói về vùng đất xứ Già Giàu (nhà giàu): vốn được
cư dân Thi Ông gọi là xứ “thượng đoạn”. Nhận thấy đây là một vùng đất tốt nên
ngài Ngô Văn Thắng, Ngô Văn Thọ đã mua đất của Thi Ông nằm ở hữu ngạn sông Vĩnh
Định với diện tích 30 mẫu có dư. Sau khi Thuận Nhơn an cư lạc nghiệp thì đổi
tên lại là lại xứ “Già Giàu” (chỉ sự giàu có của nhiều gia đình).
Theo gia phả cụ Ngô Xưng cung cấp, trong đoàn quân thần chỉ
huy đào sông ấy có hai ông Ngô Văn Thắng, Ngô Văn Thọ tham gia, sau khi sông
đào xong hai ông được phép trưng canh, mua đất lập làng. Như quan niệm của người
xưa “nhất cận thị, nhị cận giang” nên hai Ngài đã mua hai vùng đất của làng Thi
Ông, Cu Hoan có dòng sông Vĩnh Định chảy qua nhưng trên thực tế nhờ sức ép của
bà Hiền phi Ngô Thị Chánh (vợ vua Minh Mạng, là chị của hai ngài Ngô Văn Thắng,
Ngô Văn Thọ) rất lớn.
Một thời gian sau, các tiền nhân lại mua thêm đất ở xứ Cồn Đống
- Cồn Miếu của làng Cu Hoan. Cồn Đống - Cồn Miếu nằm ở tả ngạn sông Vĩnh Định,
nơi giao nhau ngã ba sông rất thuận lợi cho đi lại, phát triển kinh tế.
Đến năm 1839, dưới triều vua Minh Mạng, Thuận Nhơn chính thức
có làng hiệu. Ngài Ngô Văn Thắng (ngài anh) theo “tập ấm” được phong làm quan
cai đội nên ngài đã nhường tước vị khai canh cho ngài em là Ngô Văn Thọ và con
của ngài là Ngô Văn Vân làm hậu khai khẩn.
* Thôn Trường Phước: vốn là 1 trong 5 giáp của xã Trường
Sanh: giáp Đông, giáp Mỵ, giáp Trung, giáp Hậu, giáp Phước. Giáp Phước nay là
Trường Phước thuộc xã Hải Lâm.
Theo bản dịch và hiệu chú “Ô Châu cận lục” của Trần Đại
Vinh, Hoàng Văn Phúc (NXB Thuận Hóa, Huế, 2001) thì ghi chú làng Đoan Trang đến
nay không còn. Bản dịch và hiệu chú “Ô Châu cận lục” của Văn Thanh và Phan Đăng
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) thì ghi chú làng Đoan Trang là làng Mỹ
Chánh (Hải Chánh) hiện nay. Nhưng có lẽ 4 tác giả đã nhầm do không tiếp cận thực
địa nguồn tư liệu Hán Nôm tại làng Trường Sanh.
Trong Châu bộ của làng Trường Sanh lập vào năm Hoằng Định thứ
6 (1605) ghi rõ: “Triệu Phong phủ, Hải Lăng huyện, Đoan Trang xã. Lê Thời Danh,
Võ Trạch Thủ đẳng, do tự Hồng Đức niên gian Lê vị trước chí Quang Hưng thập tứ
(1591), Hoằng Định lục niên (1605), tiền tu tả kiến canh địa bộ, hậu khai báo
chúc thơ tổ nghiệp, các họ khai canh bao chiếm điền thổ các sở cập lưu hoang,
thượng tự sơn lâm thổ trạch, hạ cập điền thư như khê hác tích thủy kỳ như hải
hoạt đẳng khai”* [6, tr.33]. Làng Trường Sanh có 12 họ, nhưng có 8 họ chính được
coi là có công tạo lập nên xóm làng vào thời kỳ đầu lập nghiệp, gồm: Lê, Võ,
Nguyễn, Trương, Hồ, Trần, Phan, Bùi.
Đến đời thứ 3 – 4, con cháu họ Lê (Lê Khắc Trình), Trần (Trần
Thiên Tải), Nguyễn (Nguyễn Khắc Ứng) làng Trường Sanh đã lên đây khai phá đất
đai, sinh cơ lập nghiệp. Tương truyền ngài Lê Khắc Trình làm quan tri huyện Hải
Lăng bị một số người ghen ghét nên tìm cách giết hại khi ông trên trường đi làm
về. Nơi ông bị chém, người dân lập miếu thờ nay gọi là miếu Ông Huyện. Ông được
phong làm tiền khai khẩn tri huyện phụ bộ Lê Đại La. Trần Thiên Tải, Nguyễn Khắc
Ứng, Phan Khắc Ngạn (người làng Diên Sanh) làm hậu khai canh.
Trải qua một thời gian dài sinh cơ lập nghiệp, cư dân ở giáp
Phước muốn tách thành đơn vị hành chính độc lập nhưng không được làng Trường
Sanh đồng ý. Lúc bấy giờ ở Diên Sanh có ông Phan Khắc Ngạn làm quan đến chức
Trưởng Thái giám sự chính phủ, Đề đốc phụ quốc tả trị, Nhân phước hầu tại triều
đình Huế. Ông Ngạn có người em ruột là Phan Khắc La (Đốn) muốn lên sinh sống tại
Trường Phước. Nhân cơ hội đó ba họ Lê, Trần, Nguyễn nhờ ông Ngạn can thiệp để
tách khỏi Trường Sanh. Để trả ơn ông Ngạn, làng nhượng cho ông Ngạn một vùng đất
rộng là “bàu làng” và “trằm Đún” (khoảng trên 20 mẫu). [10, tr. 23]
Như vậy, ta không biết rõ thời gian cụ thể thôn Trường Phước
thành lập nhưng cho đến cuối thời các chúa Nguyễn, Trường Phước vẫn thuộc về
Trường Sanh, đến Triều Nguyễn mới trở thành đơn vị hành chính độc lập.
* Phường Xuân Lộc: hình thành vào đầu thế kỷ XIX, làng còn
có một tên gọi khác là làng Bàng do vùng này có nhiều cây Bàng mọc dọc con hói
chảy qua giữa làng nên có địa danh gọi là Hói Bàng. Lúc đầu, dân cư sống tập
trung hai bên Hói Bàng. Mặc dù Xuân Lộc có tên hiệu vào đầu thế kỉ XIX, nhưng từ
thế kỷ XVIII những cư dân làng Hà Lộc (là một làng nằm phía dưới vùng đồng bằng
ven sông Ô Lâu) do nhu cầu phát triển về đất ở, đất canh tác, tránh lụt lội nên
đã di cư dọc theo sông Thác Ma lên đây lập nghiệp. Cho đến cuối thế kỷ XVIII cư
dân Hói Bàng vẫn chung đinh, chung điền và các thiết chế văn hóa với làng Hà Lộc.
Đến thế kỷ XIX dân cư ngày càng đông mới thiết lập phường hiệu và ông Nguyễn
Văn Tuyền là Lý trưởng đầu tiên.
Người có công đầu tiên trong việc khẩn hoang vùng đất này
thuộc về dòng họ Phan (Hà Lộc) đó là ông Phan Công My thế hệ thứ 3 của họ Phan
Công được tấn phong là thần Khai canh. Tiếp đến là họ Nguyễn (Nguyễn Văn Sim) gốc
Thanh Hóa và các dòng họ khác.
Làng Phú Long được vua Tự Đức thứ 22 (1869) cho phép xuất
phường khỏi làng Long Hưng. Quá trình hình thành làng Phú Long gắn liền với sự
củng cố vương triều Nguyễn. Vào năm Gia Long thứ 3 (1804) vua cho xây dựng kinh
thành Huế làm cho dân ở tả ngạn sông Hương từ Kim Long xuống Bao Vinh mất đất
nhất là làng Phú Xuân (Huế). Trước tình hình đó vua cấp thẻ bài cho phép dân
các làng đó đi đến đâu đều được hưởng quyền lợi về mọi mặt ngang hàng với cư
dân lâu đời ở đó. Trong số những người Phú Xuân ra đi lúc đó có ông Nguyễn Bá
Văn và một số người khác đến làng Đình Tổ (Quảng Bình) nhưng nhận thấy ở đây
khó khăn các ông đã tìm về làng Long Hưng. Lúc đầu, họ sống chung với cư dân
làng Long Hưng nhưng về sau do mâu thuẫn về vấn đề nhận ruộng đất, định kiến
dân chính cư và ngụ cư nên sau khi được vua Tự Đức cho phép xuất phường những
người này đã bao chiếm vùng đất phía tây làng Long Hưng gồm các vùng An Lạc,
Tân Qui, Phong Tài, Hoàng Tiến để khai khẩn. Họ đã đồng cam cộng khổ cùng nhau
khẩn hoang vùng gò đồi này được hơn 1000 mẫu.
Phú Long có ý nghĩa là lấy chữ Phú trong Phú Xuân và Long
trong Long Hưng mà thành. Cũng ra đi từ làng Phú Xuân, ở trên vùng đất Hải
Lăng, nằm bên dòng sông Vĩnh Định có một làng mang tên gốc Phú Xuân đó là làng
Phú Xuân (Hải Xuân) (Đệ nhất phường Phú Xuân) nhưng thành lập sớm hơn vào khoảng
những năm 60-70 thế kỷ
XVIII. Do các ngài họ Đặng, Lê, Hoàng, Nguyễn, Trương đã chọn
vùng đất thuộc xã Trà Trì để định cư và đây là làng duy nhất trên đất Quảng Trị
giữ nguyên tên gốc của làng Phú Xuân (Huế).
Làng Như Sơn: họ Nguyễn làng Như Sơn có gốc từ làng Kim Long
(Huế). Cũng do việc xây dựng kinh thành nên họ Nguyễn (Như Sơn) ra làng Phú
Liêu (Triệu Tài - Triệu Phong) sinh sống. Đến khoảng năm 1849 do điều kiện Phú
Liêu chật hẹp nên vào vùng đất kề cận Lương Điền (Hải Sơn) sinh sống. Năm Tự Đức
thứ 32 (1879) được vua cho phép lập làng tên là Như Sơn (núi bằng) với 29 mẫu
ruộng. Khai canh lập làng là ngài Nguyễn Hoài Phúc, hai vị hậu Khai khẩn là
Nguyễn Đình quý công và Nguyễn Văn quý công.
Làng Tân Điền là một làng mới của Lương Điền hình thành vào
khoảng gần cuối thế kỉ XIX (Tự Đức 26 - 1873).
Làng Lương Chánh ra đời từ việc mua đất của làng Thượng An
(Hải Vĩnh) với diện tích 12 mẫu 8 sào. Làng thành lập vào năm Tự Đức thứ 20
(1867). Những người sáng lập ra làng phần lớn có nguồn gốc từ làng rèn Hiền
Lương (Huế). Trong đó, ngài Nguyễn Văn Hương được sắc phong là Hậu Khai canh.
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ Ở HẢI LĂNG
Qua thống kê các xã thôn huyện Hải Lăng trong Đồng Khánh Dư
địa chí ta thấy lúc bấy giờ Hải Lăng có 4 Tổng gồm: Tổng An Thái 2 xã, phường;
Tổng Cu Hoan 9 xã, thôn, phường; Tổng An Thư 6 xã, thôn; Tổng An Nhân 23 xã,
thôn, phường. Tổng cộng là 62 xã, thôn, phường. Trong đó phường Nà Nẫm, phường
Trinh Thạch nay thuộc về huyện Đakrong, 4 xã Thạch Hãn, Cổ Bưu, Tích Tường, Như
Lệ nay là Thị xã Quảng Trị, xã Phương Da thuộc Triệu Phong, 3 phường Mai Lĩnh,
Sái Xuân, Tân Hội và xã Ba Thâu chưa xác định (tác giả) thì nay thuộc huyện Hải
Lăng là 51 xã. Nếu căn cứ vào trên thì ta thấy trong Đồng Khánh Dư Địa chí
không thấy ghi 2 xã Phương Lang, Ba Du và Mai Đàn Thượng thôn ra đời trước đó
nhiều thế kỷ đã được ghi chép trong Phủ biên tạp lục.
Lực lượng khẩn hoang lập làng trong giai đoạn này chủ yếu là
từ các làng của Hải Lăng đã thành lập trước đó nay do nhu cầu phát triển về đất
ở, đất canh tác, tránh lụt lội… nên từ thế kỷ XVII - XVIII - XIX rất nhiều làng
đã tìm lên vùng gò đồi phía Tây của huyện để khẩn hoang sau này hình thành nên
những làng như Tân Diên, Diên Trường, Trường Thọ, Trường Xuân, Tân Trường, Câu
Nhi phường, Vực Kè, Khe Mương, Trầm Sơn vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX… Ngoài ra còn có cư dân từ Huế ra do nhu cầu sản xuất nghề nghiệp như làng
rèn Hiền Lương hay do triều đình Huế mở rộng xây dựng kinh thành như làng Kim
Long, Phú Xuân. Cư dân Quảng Bình, Thanh - Nghệ nhưng không nhiều.
Hình thức tách làng và mua đất lập làng là đặc điểm khá nổi bật trong thời kỳ này.
Hình thức mua đất lập làng: Do lúc bấy giờ sông Vĩnh Định
giao thông thuận lợi, cũng là tuyến giao thương bằng đường thủy chủ yếu từ Huế
ra Cửa Việt nên nhiều làng đã chọn những vùng đất dọc con sông này để sinh sống
như làng Thuận Nhơn (về sau Thuận Nhơn mua thêm trằm Đỏ Tía của Câu Hoan lập
nên làng Thuận Đức), Lương Chánh, Phú Xuân, Kim Sanh (Phường Xăm Cựu Vĩnh Định)…
Hình thức tách làng: Do nhu cầu phát triển về đất ở, đất
canh tác, tránh lụt lội… nhiều làng đã tìm đến vùng đất phía Tây của huyện để
khẩn hoang. Lúc đầu, các làng vẫn chung đinh, chung điền, thiết chế văn hóa với
các làng gốc nhưng về sau khi dân cư ngày càng đông lên, vì nhiều nguyên nhân
khác nhau, có thể do mâu thuẫn, cũng có thể do để dễ quản lý, thuế mà tách ra
thành đơn vị hành chính độc lập. Ví dụ, làng Trường Phước, làng Ba Khê thành lập
năm 1812 do Bà Trừ vào thời Gia Long đem con cháu hai họ Bùi Văn, Bùi Phước từ
làng Trí Bưu đến xứ “Bà Trừ” khai khẩn. Bà được phong là Tiền Khai khẩn, dân
làng yêu quý gọi bà là Trà Phu Nhân. Và có lẽ đây là trường hợp nữ duy nhất được
tôn danh hiệu này trên đất Hải Lăng.
Từ tên gọi các làng xã ở trên, ta thấy khi đặt tên các xã đều
giữ một phần tên gốc của làng mình trước đây để nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn,
hoặc phản ánh vùng đất mới minh sinh sống như: Thuận Nhơn, Thuận Đức với ý
nghĩa tìm Thuận Nghĩa mà về “…Cao tổ huý Ca dĩ tiền sinh trưởng Gia Định tỉnh,
Thuận Nghĩa thôn, kỷ sự tích bản vô tường kỷ…”. Trường Phước (Trường Sanh),
Xuân Lộc (Hà Lộc), Phú Long (Phú Xuân + Long Hưng), Lương Chánh (Hiền Lương),
Như Sơn (núi bằng)…
KẾT LUẬN
Quá trình hình thành các làng xã huyện Hải Lăng đã diễn ra
lâu đời. Kể từ khi châu Ô, châu Lý sát nhập vào Đại Việt (1306) cũng là quá
trình người Việt di cư vào đây khai khẩn, dựng làng. Dĩ nhiên, khi người Việt đến
tụ cư, đây không phải là mảnh đất vô chủ. Trước đó, cư dân Chăm đã sinh sống, tạo
lập một nền kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển. Nhưng đối với người Việt đây vẫn
là một vùng đất xa xôi, khó khăn, nguy hiểm. Người Việt đến đây phần lớn là
binh lính, tù nhân, nông dân nghèo khổ. Trải qua quá trình chung lưng đấu cật,
chế ngự thiên nhiên, cải tạo ruộng đồng, khai thác đất đai các làng xóm dần dần
ra đời. Tuy nhiên, phải đến thời Lê, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông (1460 -
1497) công cuộc khai khẩn vùng đất phía Nam được đẩy mạnh trong đó có Hải Lăng.
Phần lớn các xã thôn ở Hải Lăng hiện nay được định hình về cơ bản trong thời
gian này. Hay nói cách khác, các làng xã được thành lập hoàn chỉnh và ổn định.
Những hoạt động khẩn đất lập làng từ nửa sau thế kỉ XVI (1558) trở đi là sự
khai phá mở rộng và đi vào chiều sâu. Nhìn vào danh sách các làng xã trong Ô
Châu cận lục, Phủ biên tạp lục ta thấy số lượng làng xã tăng lên khá nhiều
nhưng thực tế đi sâu tìm hiểu các làng xã ở trên địa bàn Hải Lăng hiện nay thì
không như vậy. Đến thời Nguyễn 1802 – 1945 rất nhiều xã hiệu mới được thành lập
trên cơ sở đất đai của các làng hình thành trước đó.
Qua việc tìm hiểu các làng xã được thành lập ở Hải Lăng giai
đoạn 1802 – 1885 một lần nữa chứng minh quá trình khai khẩn đất đai diễn ra rất
lâu dài, liên tục. Các làng xã ban đầu được hình thành chủ yếu ở vùng đồng bằng,
ven biển về sau do nhu cầu mở rộng diện tích đất canh tác, tránh lụt lội, các
làng tiến hành khai khác mở rộng khu vực xung quanh mình cư trú, về sau nữa
chuyển lên khai thác vùng gò đồi phía Tây của huyện.
Việc mua đất lập làng như ở Thuận Nhơn, Thuận Đức, Lương
Chánh. Hay như sự ra đi của cư dân các làng Phú Xuân (Huế), Kim Long (Huế) do
nhu cầu xây dựng mở rộng kinh thành, được vua cấp thẻ bài cho dân các làng đó
đi đến đâu đều được hưởng quyền lợi về mọi mặt ngang hàng với cư dân lâu đời ở
đó. Về sau, thành lập làng Phú Xuân, Phú Long, Như Sơn là một nét mới mà các
giai đoạn trước đó chưa có.
Chú thích: * Xã Đoan Trang, Huyện Hải Lăng, Phủ Triệu Phong, thời nhà Lê, có hai vị là Lê Thời Danh, Võ Trạch Thủ, trước năm Quang hưng 14 (1591). Năm Hoằng Định thứ 6 (1605), trước là tu sửa, khai khẩn đất đai, sau là khai báo công đức với tổ tiên, tổ nghiệp. Các họ (hộ) tiếp tục khai phá mở rộng đất hoang, chọn vùng cao làm nhà ở, chọn nơi thấp làm ruộng như khê hác (khe hác) thì tích nước thành hồ lớn thuận lợi cho khai hoang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dương Văn An (Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc hiệu đính và dịch
chú) (2001). Ô châu cận lục, NXB Thuận Hoá, Huế.
Dương Văn An (Văn Thanh, Phan Đăng dịch và chú giải) (2009).
Ô châu cận lục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Ban chấp hành Đảng bộ xã Hải Chánh (2014). Lịch sử Đảng bộ
xã Hải Chánh (1930 - 2010), Quảng Trị.
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hải Lăng (2015). Lịch sử Đảng bộ
huyện Hải Lăng (1930 - 1975), NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật.
Ban chấp hành Đảng bộ xã Hải Sơn (2008). Lịch sử Đảng bộ xã
Hải Sơn (1930 - 2005), Quảng Trị.
Ban chấp hành Đảng bộ xã Hải Trường (2012). Lịch sử Đảng bộ
xã Hải Trường (1930 - 2010), Quảng Trị.
Lê Quý Đôn (Viện Sử học dịch) (2007). Phủ biên tạp lục, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Đồng Khánh dư địa chí (Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên,
Philippe Papin dịch), bản CD-Rom.
Lê Văn Duẫn (1985). Làng xã ở Hải Phú (Từ thành lập đến trước
Cách mạng tháng Tám 1945), Khoá luận tốt nghiệp, Trường ĐHKH Huế, Huế.
Lê Thanh Hà (1985). Quá trình hình thành và phát phiển các
làng xã ở xã Hải Lâm Triệu Hải – Bình Trị Thiên dưới thời Phong kiến, Khoá luận
tốt nghiệp, Trường ĐHKH Huế.
Title: THE ESTABLISHMENT OF THE VILLAGE UNDER THE NGUYEN
DYNASTY (1802-1885) IN HAI LANG DISTRICT QUANG TRI PROVINCE
Abstract: The work of reclaiming the establishment of the
village is a large problem, many researchers, managers and interested villages.
This article would like to mention the establishment of a number of villages in
Hai Lang district under the Nguyen Dynasty (1802- 1885). Thereby, show some
features about the process of establishment the villages during this period.
Keywords: village, Hai Lang, Nguyen Dynasty
NGUYỄN THỊ MINH THIỆN
Trường THPT Quang Trung – Tây Ninh
TS. THÁI QUANG TRUNG
Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Huế
(Ngày nhận bài: 19/5/2016; Hoàn thành phản biện: 17/6/2016;
Ngày nhận đăng: 17/7/2016)
Nguồn: http://tckhgd.huce.vn/DOC_BAIBAO/34_532_NguyenThiMinhThien,ThaiQuangTrung_13_thai%20quang%20trung%20lan%202.pdf