Ban Quản Trị

Thư từ bài vở xin gởi về:
Nguyễn Điền: nguyendienhl@gmail.com - Nguyễn Lê Hiếu: lehieunguyen91@gmail.com - Triều Nguyên: baolongspkt@gmail.com, luongdienhaison@gmail.com, ngkhacphuoc@gmail.com


Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Khắc Phước. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Khắc Phước. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

TRUYỀN THUYẾT SÔNG THÁC MA - Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước

TRUYỀN THUYẾT SÔNG THÁC MA
Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước

- Có thích ăn thịt heo rừng không?
Thằng bạn nhà báo gọi tôi.
- Thích. Mầy đang ở đâu?
- Sài Gòn. Nhưng tao mời mầy ăn thịt heo rừng ở thượng nguồn sông Thác Ma.
- Thác Ma ở đâu?
- Thác Ma còn gọi là sông Mỹ Chánh chảy qua làng mầy mà mầy không nhớ hả?
- Biết đâu còn có sông Thác Ma nơi khác.
- Cái tên dễ sợ vậy mà ai dám đặt. Chỉ có ở Quảng Trị mình thôi.
- Vậy lúc nào mầy về?
- Chiều thứ sáu tới mầy phải có mặt ở Quảng Trị để sáng thứ bảy là đi.

Thế là sáng thứ bảy đầu tháng Sáu năm ngoái, hai thằng  tôi đi xe máy thồ từ Mỹ Chánh theo con đường dọc bờ sông hướng về phía tây mà tiến. Đi đến trưa thì nghỉ và chuyển sang đi bộ vì đến đoạn xe máy không thể chạy được. Tôi chẳng mấy khi đi bộ băng rừng, thấy đường này ngán quá, nhưng bạn tôi, vốn là dân hướng đạo, nói đường này đối với nó cũng như đường làng, chẳng nhằm nhò gì, và động viên tôi cố lên. Thế là tôi đành phải theo. Đi bộ leo núi gần hết buổi chiều mới đến được trang trại của anh Đoàn, một người quen của bạn tôi.

Đó là một khu đồi khá bằng phẳng mà anh dùng để nuôi loại heo lai giữa heo rừng và heo nhà. Heo thả đi kiếm ăn tự do. Chúng ăn bất cứ côn trùng nào kiếm được, và giống như chó, chúng còn thích phân người. Mỗi lần ra rừng đi ngoài, nhớ mang theo cây gậy, vừa ngồi vừa huơ huơ, nếu không thì có thể bị heo húc từ phía sau để tìm thứ chúng thích.

Buổi tối ngồi bên bếp lửa hừng hực, vừa nhắm rượu ngoại mà bạn tôi công khó mang từ Sài Gòn, vừa nhai thịt heo nướng ướp củ nén thơm phức. Mùi rượu, mùi thịt nướng, mùi nén quyện vào nhau thành một thứ ngon không thể tả. Và càng ngon hơn vì biết chắc thứ thịt heo này 100% không có chất bảo quản hay thuốc tăng trọng như thịt heo ở thành phố.

Sau chuyện thịt heo, tôi hỏi anh chủ trại vì cớ gì mà người ta đặt tên con sông ở đây là Thác Ma, nghe dễ kinh. Tôi cũng phân bua rằng mặc dù tôi sinh ở vùng này nhưng chỉ ở đây gần 15 năm, mà ở xa quê đến 40 năm, nên không có thì giờ để tìm hiểu hết mọi thứ.

Có vẻ bắt trúng đài nên anh chủ trại rót rượu đầy cốc, hô cạn chén, và bắt đầu kể. Anh chủ trại cho biết chuyện anh sắp kể được truyền miệng từ ông vãi của anh, người đã tham gia trong loạn Chày Vôi của Đoàn Trung- Đoàn Trực và phải bỏ lên rừng sống với người Kờ-tu ở vùng biên giới Việt Lào.       

***

Mụ C’Lâu chết ở tuổi bảy mươi. Vào lễ khâm liệm, lúc sắp bỏ vào hòm, người nhà phát hoảng khi bỗng nghe mụ kêu khát nước. Nhà đám chuyển từ lễ tang sang lễ ăn mừng bà nội sống lại.

Đúng vào ngày hôm đó, trong buôn làng có một cái chết rất thương tâm của một cô gái tên là Riah.

Cha Riah là người chuyên săn bắn và mang thịt xuống miền xuôi để bán. Một người từ bên kia biên giới nhờ lão chuyển những gói chứa chất dẻo màu nâu như phân gà sáp cho một người khác ở nơi lão đến, và để trả công, lão được biếu không một gói, được dặn là bỏ vào thuốc lá hút cho khỏe người. Lão không biết rằng đó là thuốc phiện và càng hút lão càng nghiện, lão phải bỏ tiền ra mua. Nương rẫy lão cầm cố hết, đến hồi phải đưa con gái là Riah vào ở đợ cho nhà Alang, một người giàu có trong buôn, để lấy tiền mua thuốc phiện. Aviet, một chàng trai con nhà nghèo cũng đang ở đợ nhà Alang, đem lòng yêu Riah. Thế nhưng mối tình đó vỡ tan khi cha Riah bắt nàng về bán cho người ta để trừ nợ thuốc. Riah bỏ trốn cùng với Aviet đến sống trong một nhà Zơng trên một đám rẫy bỏ hoang. Cha Riah đi tìm và bắt nàng về. Khi đi ngang qua Vực Kè, nàng nhày xuống tự tử. Dưới bờ vực sâu hơn trăm mét là một thác nước chảy xiết, cuốn xác nàng không biết về đâu.

Kể từ sau cái chết của Riah, đêm nào Aviet cũng đến ngồi trên Vực Kè, gọi tên nàng và khóc lóc thảm thiết. Anh ngồi đó đến nửa đêm mới về nhà Alang. Một đêm, lúc sắp ra về, dưới ánh trăng thượng tuần hư ảo, anh khi lạnh người khi thấy một bóng người đang đi về phía anh. Lúc đầu anh nghĩ là ma nhưng đến gần anh biết đó là người, và không ai xa lạ, chính là mụ C’Lâu vừa mới mất và sống lại cách đó vài hôm.

- Này mụ C’Lâu. Mụ đi đâu vào giờ này?
- Không phải là mụ C’Lâu đâu anh. Em chính là Riah  đang mượn xác mụ C’Lâu để về với anh đây. Thân xác mụ bây giờ đã trẻ lại mấy chục tuổi rồi nhờ có linh hồn của em. Không tin anh hãy ôm em đi.

Hai bóng quyện vào nhau, khóc rồi cười, cười rồi khóc cho đến khi gà rừng gáy sáng mới chia tay.

Kể từ ngày Mụ C'Lâu sống lại, người nhà thấy mụ mỗi ngày một trẻ ra, da thịt căng và hồng hào như con gái. Đặc biệt là mụ cấm khẩu, không nói một lời. Không ai phát hiện mụ ra khỏi nhà vào ban đêm vì không ai dám ngủ gần mụ, sợ rằng mụ sẽ bắt về cõi âm. Thế nhưng, vào đêm thứ bốn mươi chín sau ngày mụ sống lại, một người cháu trai tình cờ phát hiện và đi theo mụ. Anh thấy mụ đi về phía Vực Kè và một người thanh niên đang ngồi ở đó chờ mụ. Người đó là Aviet, người yêu của Riah, cô gái đã tự tử trước đó bốn mươi chín ngày. Hai người ôm nhau tâm sự, khóc cười, lăn lóc trên kè đá, quên hết trời đất. Đến khi trăng sắp lặn và gà rừng gáy sáng thì bỗng cả hai ôm nhau nhảy xuống bờ vực. Người cháu chạy lên bờ vực ngó xuống, không thấy gì ngoài bóng tối. Lẫn trong tiếng thác nước réo ầm ào, hình như vẫn còn nghe tiếng tiếng khóc tỉ tê, tiếng cười man dại ma quái dội vẳng lên từ vực sâu. 

NKP


Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

TẢN MẠN VỀ CON TRÂU - Nguyễn Khắc Phước



TẢN MẠN VỀ CON TRÂU
Nguyễn Khắc Phước

Hồi tóc còn để chỏm, tôi đã từng nghêu ngao bài hát "Em bé quê"  (Phạm Duy phổ nhạc từ một bài đọc trong sách Quốc văn Giáo khoa thư): "Ai bảo chăn  trâu là khổ. Không chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi mình trâu..." gợi hình ảnh chú bé ngồi vắt vẻo thổi sáo trên mình trâu khi đàn trâu đang tha thẩn trở về chuồng trong  buổi chiều hoàng hôn mát rượi. Có lần đang ngồi trên mình trâu nhưng nghĩ nát óc mà không tìm ra lời giải cho câu đố: Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân, là con gì? Cũng không phải chỉ một lần ngồi trực bên bên rỗ rơm khi cha đang dắt trâu đạp lúa để chờ nghe "ỉa ỉa" là xách rỗ đến hứng, bù lại, được nghe mấy ông thợ gặt tán chuyện mấy o trong làng hoặc được ăn chè đậu sau khi xảy rơm xong. 

Đã ngồi trên mình trâu mà không biết gì về con trâu và nhớ ơn đàn trâu đã cùng gia đình lao động vất vả để có cái ăn, cái mặc nên hôm nay tôi tự tìm hiểu về con vật thân yêu này.

Những câu tục ngữ như: "Trâu cột ghét trâu ăn", "con gái mười bảy bẻ gảy sừng trâu",  "lộn con toán bán con trâu"  v.v.  xuất hiện thường xuyên trên cửa miệng mọi lứa tuổi trong câu chuyện hằng ngày, kể cả  thị dân, chứng tỏ hình ảnh con trâu có ấn tượng rất sâu đậm trong đời sống và ngôn ngữ của người Việt.

Quê hương chính của trâu là vùng Nam Á và vùng Đông Nam Á.

Các nhà khoa học chia loài trâu làm 3 giống.

Giống trâu hoang dã châu Á còn gọi là arni được xếp vào giống có nguy cơ tuyệt chủng, một số ít được tìm thấy dưới chân rặng Hymalaya. Một số ít khác được bảo tồn trong vườn quốc gia Hukuang Mianmar. Vùng Đông nam Á kể cả dãy Trường Sơn có khoảng chừng 50 con.

Giống trâu sông (river buffalo) có 50 nhiểm sắc thể  sống ở độ cao 2.800 mét ở Nepal và vùng Nam Á.

Giống trâu đầm lầy (swamp buffalo) có 48 nhiểm sắc thể còn gọi là carabao được nuôi nhiều ở Phi và vùng Đông Nam Á. Giống carabao nầy còn là con vật biểu tượng quốc gia của Philippines .

Tháng 9 -2007, các nhà khoa học Phi  tuyên bố đã lai tạo được giống trâu vô tính đầu tiên.  Tháng 1 - 2008 họ lại bắt đầu lai tạo một giống trâu siêu chủng cho nhiều sữa, đặt tên là Glory, theo tên của tổng thống Gloria Maccapagal Arroyo.

Giống trâu Murrah ở Ấn Độ nỗi tiếng cho nhiều sữa nhất thế giới. Trâu Murrah có sừng xoắn, khác với trâu thường có sừng vòng cung. Mỗi năm một con có thể cho đến 3000 lít. Mỗi năm Ấn độ sản xuất 30 triệu tấn sữa trâu. Phần còn lại của thế giới chỉ bằng một nửa số lượng ấy. Ấn Độ cũng đã lai tạo được một giống trâu siêu chủng đặt tên là Nili-Ravi.

Truyền thuyết Phật giáo  có câu chuyện kể rằng trước khi thành Phật, Đức Thích Ca đã bỏ ra sáu năm để  hành pháp khổ hạnh đến nỗi thân thể chỉ còn da bọc xương. Về sau thấy phương pháp khổ hạnh chỉ đem lại đau khổ mà trí tuệ chẳng hề tăng trưởng nên Ngài quyết định dùng lại thức ăn để có đủ sức hành thiền, quán niệm hơi thở. Trong thời gian 49 ngày thiền định, ngài được thôn nữ Sujata dâng cúng cháo sữa, và nhờ đó sức khỏe, ngài được hồi phục nhanh chóng. Theo thiển ý của tôi, chắc chắn trong cháo sữa đó có sữa trâu, một là vì ở Ân Độ, bò là linh vật nên chẳng mấy ai dùng sữa bò. Hai là vùng bắc Ấn là nơi có rất nhiều trâu sinh sống. Ba là sữa trâu bổ dưỡng, rất thích hợp với người suy dinh dưỡng, vì trong sữa trâu giàu chất béo, canxi, năng lượng cao gấp đôi sữa bò. (Trong 100 mg sữa trâu có 110 kcalo, trong khi 100 mg sữa bò chỉ có 66 kcalo).

Ngày nay, sữa trâu còn được chế biến thành bơ pho-mat hoặc sữa chua.

Sữa trâu nhiều chất béo hơn sữa bò nhưng thịt trâu lại ít mỡ hơn thịt bò, nhưng lượng sắt có trong thịt trâu lại cao hơn thịt bò. (Trong thịt trâu nghé chỉ có1,5 - 5,6%  mỡ so với thịt bò là 10 - 20%) .Thịt trâu thích hợp với  người làm việc bằng trí óc, huyết áp cao, xơ vữa động mạch hay có nhiều cholesterol trong máu. Phụ nữ mập có thể ăn thịt trâu  vì nó cung cấp năng lượng mà không làm tăng cân. Thịt trâu hầm không mất chất lượng thích hợp với người già và trẻ con và có thể để  nhiều ngày không hư.  Thịt trâu nghé mềm quá không ngon bằng thịt trâu choai chừng 2 tuổi. Ở Thốt Nốt có món thịt trâu luộc với nước cơm mẻ. Ở Củ Chi có món phở nghé. Ở Hòa Tiến, Đà Nẵng, có món thịt nghé nướng lá lốt. Ở Quảng Trị có món thịt trâu xào với đọt trơng (phần lá non màu tím, hạt trơng to bằng hạt tiêu dùng làm đạn của súng ống nổ). Ở Đồ Sơn, người ta giết thịt trâu chọi và bán rất được giá.  Ở Sài Gòn, nếu thèm thịt trâu cứ ghé cửa hàng thực phẩm tươi sống của Vissan  trong hệ thống siêu thị  Saigon Coop  tìm thử xem. Ở thôn quê  vào mùa rét trâu chết hàng loạt, người ta phải xẻ thịt chia nhau ăn, nhưng khổ nỗi trâu chết thường là trâu già yếu không chống chọi được với giá rét và bà con lại không biết cách chế biến nên món thịt trâu trở thành món khó nuốt vì mùi thịt và quá dai. Muốn thịt trâu già hầm mau nhừ và có mùi vị thơm ngon thì buổi tối, trước khi nấu, xoa lên miếng thịt trâu một lớp bột hạt cải, sáng hôm sau rửa sạch trước khi nấu. Coi chừng nhiểm bệnh than (Antharax) nếu ăn phải trâu bệnh.

Tục ngữ có câu: "Trâu bò chết để da người ta chết để tiếng" . Thế nhưng trâu chết cũng để "tiếng" nhưng đó là tiếng trống. Da trâu làm trống phải thuộc rất công phu nhưng chỉ có da trâu cái chưa sanh đẻ mới tốt vì nó rất dai và cho tiếng kêu hay. Da trâu nấu thành cao gọi là giao để hòa với vôi quét tường, tạo chất kết dính. Ngoài ra, đông y còn dùng da trâu như một loại dược liệu có tác dụng giảm đau, cầm máu. Ở Bảo tàng Quảng Trị có sợi dây da trâu, chiều dài hơn 2m,  đường kính 20mm (nguyên thủy dài hơn), trước đây bộ đội dùng để kéo pháo trong chiến dịch giải phóng miền Nam.

Sừng trâu cũng không phải là thứ bỏ đi mà được các nghệ nhân của công ty Lý tam Hùng của ông Lý Patrick ở Hà Tiên chế biến thành các đồ trang sức, từ vòng, nhẫn... cho đến các đồ dùng khác như lược, gọng kính, đẹp không thua gì sơn mài, được bày bán khắp nơi trên thế giới. Người dân tộc Tây Nguyên dùng sừng trâu để rót rượu hay làm mõ. Sừng trâu cũng có thể thay cho sừng tê giác trong một số bài thuốc nam.

Hầu như tất cả các nước vùng Đông Nam Á  đều có lễ hội đua trâu  với tay nài ngồi trên lưng trần của trâu nhấp nhấp nhổm nhổm  trông rất hào hứng, song người ta không giết trâu sau lễ hội như ở Việt Nam.  Người Chăm ở Lạc Tánh có lễ Chém Trâu (Săm lé) diễn ra vào tháng tư Chăm lịch với thủ tục nghi lễ rất công phu.

Phụ nữ có bầu ở thôn quê rất kị đi phía sau đít trâu vì lỡ bị trâu đập đuôi thì rất khó sinh (?).

Nuôi trâu không chỉ để kéo cày nhưng còn để lấy cứt trâu làm phân bón. Cứt trâu còn để trát phên hoặc có nơi phơi khô để đun nấu. Để chuẩn bị sân đạp lúa, người ta lấy phân trâu hòa với nước thành chất bùn sền sệt đem quét lên mặt sân để trám chỗ nứt nẻ. Phơi sân 3 nắng là được.  Mùi phân trâu, mùi nước đái trâu hòa với mùi lúa mới và mùi rơm rạ tạo thành một thứ mùi quê hương đặc trưng khiến bao người xa quê phải thương nhớ đến ngẩn ngơ. Vào mùa đông giá rét, nếu bạn bị nứt gót chân, thử đạp chân vào bãi phân trâu mới ỉa còn ấm vài lần, có thế cũng đỡ!

Mười bức tranh trâu, mà người ta thường gọi là "thập mục ngưu đồ",  vẽ con trâu và người chăn trâu, mô tả thứ tự quá trình diễn biến trong tâm thức của người hành thiền, (người sáng tác có lẽ đã liên tưởng đến giai thoại Phật uống sữa nói trên?). Đầu tiên phải đối trị tâm cho đến lúc hoàn toàn khống chế được tâm. Khi tâm được thuần thục không còn vọng động, ánh sáng trí tuệ sẽ bùng lên như một mặt trời. Khi đã ngộ, hành giả ung dung nhập thế. Nếu có dịp đến thăm Trúc Lâm Thiền viện ở Đà lạt, ghé vào thư viện, bạn sẽ thấy 10 bức tranh trâu đang treo trên tường, bạn hãy nhờ thầy phụ trách thư viện ở đó giải thích thì rõ hơn.

Hồ Tây ở Hà Nội còn có tên là hồ Kim Ngưu (Trâu Vàng). Truyền thuyết kể rằng ông Khổng Lồ (Không Lộ?) có tài thu hết đồng đen của phương Bắc đem đúc thành chuông. Chuông đánh lên tiếng vang sang bên Bắc. Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền chạy đi tìm mẹ. Tới đây, nó quần thảo mãi khiến chân bị chảy máu thành hồ Tây (theo Wikipedia).

Seagames 2003 tổ chức tại Viêt Nam lấy con trâu vàng làm biểu tượng là dựa theo truyền thuyết ấy (?). Hiện nay còn có đường phố tên Kim Ngưu tại quận Hai Bà Trưng Hà Nội.

Đón Tết năm Sửu mà không  xem một "quẻ" về tuổi Sửu thì e thiếu sót. Người ta cho rằng người tuổi trâu tính chậm chạp nhưng chắc chắn, thường là người khỏe mạnh, độ tin cậy cao, thích làm lãnh đạo, cần cù, làm việc không biết mệt. Tuy nhiên, họ rất khó thay đổi quan điểm của mình, đôi khi bảo thủ, cố chấp. Người tuổi trâu ít nói và không thích ở giữa đám đông. Tuy nhiên, nếu bạn cần lời khuyên chân thật không thiên vị thì cứ đến hỏi người tuổi trâu.

Phụ nữ sinh năm Dần thường gặp khó khăn về đường gia thất, do đó, có người dấu béng tuổi thật của mình và chọn tuổi Sửu để dễ có chồng hơn!

Cuối cùng xin kể lại câu chuyện tiếu lâm mang tựa đề "Ông quan thanh liêm" dính dáng đến con trâu mà có lẽ ai cũng biết.

Một ông quan huyện nó suốt thời gian tại chức nổi tiếng là thanh liêm và đức độ, không tơ hào một đồng nào của dân, về hưu sống thanh bạch trong sự cảm mến và luyến tiếc của mọi người.

Một hôm đến ngày giỗ thân phụ, ông ngạc nhiên thấy bà vợ đi chợ mua nào gà, nào heo và nhiều món đắt tiền khác để làm giỗ rất linh đình, vượt quá sự tưởng tượng của ông. Ông hỏi bà:

- Nè bà, tôi hỏi thật bà điều này. Bà lấy tiền đâu ra mà làm giỗ linh đình thế?

Bà vợ trả lời:

- Chẳng dấu gì ông, thời ông còn tại chức có người đến hỏi ông tuổi gì, tôi thực tình nói ông tuổi Tý. Tưởng họ hỏi để coi tử vi cho ông thôi, ai ngờ một tuần sau họ đem đến biếu một con chuột làm toàn bằng vàng y. Tôi biết tính ông nên không dám nói cho ông hay. Mình đã được mời đi ăn giỗ nhà người ta không biết bao lần mà chưa có dịp mời lại . Nay đã đến lúc phải trả nợ miệng cho rồi. Tôi đành phải xẻo bớt một mẫu nhỏ của con chuột bán đi mới có tiền mua đồ cúng.

Ông quan nghe bà vợ nói xong vỗ đùi đánh đét một cái rồi nói:

- Trời đất ơi! Tiếc ơi là tiếc!  Sao hồi đó bà không nói tôi tuổi sửu!

Đà Nẵng, 2008. 
NGUYỄN KHĂC PHƯỚC

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

Xướng họa: MỘT GÓC QUÊ HƯƠNG


 Xướng: 
MỘT GÓC...QUÊ HƯƠNG...

Xứ người em có một vườn rau
Nho nhỏ nhưng mà thương biết bao !
Bí rợ, dưa leo, bầu ...mướt lắm
Đậu ve, xà lách, mướp...tươi sao !
Ớt xanh, ớt đỏ cay nồng mắt
Cà tím, cà chua rực rỡ màu
Bạn hữu tình thân mời ghé lại
Chia hồn quê giữa nắng lao xao !
Thy Lệ Trang     

 Họa:
QUÊ MẸ NGÀY NAY
(Đảo vận)

Bến sớm sương mờ gợn sóng xao
Bóng cây cổ thụ mát làm sao
Bên đình gió lướt quanh vườn bắp
Cạnh giếng chim chuyền dưới luống rau
Thôn Bãi hội ghe, cờ lắm sắc
Xóm Cồn đám cưới, áo đa màu
Được mùa, làng xóm vui như hội
Quê mẹ ngày nay đẹp biết bao
Nguyễn Khắc Phước