Tác giả: Yến Thọ - Lê Chí Tài
![]() |
Từ ngã ba Mỹ Chánh, dọc theo dòng
sông Ô Lâu/Ô Giang ngược lên phía thượng nguồn chừng 5km đến địa phận xóm
Trầm Sơn, xã Hải Sơn, huyện Hải Lăng có một ngôi lăng mộ cổ uy nghi, bề thế với
một phong cách kiến trúc rất độc đáo và không kém phần quy mô so với nhiều lăng
mộ vua chúa ngày xưa trên toàn khu vực Trị Thiên. Ðó là lăng mộ của một vị Ðội
trưởng thuộc dòng họ Nguyễn Ðức có tên húy là Uyên, vốn là người ở xã An Thơ,
tổng An Thơ, huyện Hải Lăng (nay là làng An Thơ, xã Hải Hoà, huyện Hải Lăng,
tỉnh Quảng Trị), được xây dựng từ thời chúa Nguyễn.
Bao nhiêu năm qua rồi, mặc cho
thời thế đổi thay, nhân tình dâu bể nhưng những bức tường thành, trụ cổng, bia
đá, bệ thờ, nấm mộ... vẫn còn khá vẹn nguyên, trơ gan cùng tuế nguyệt, ẩn chứa
trong lòng nó những điều còn chưa biét hết về thân thế chủ nhân và về truyền
thống khoa bảng, nghiệp quan của một dòng họ danh giá trên đất Quảng Trị: dòng
họ Nguyễn Ðức.
Từ những phát hiện về ngôi lăng
mộ cổ...
Ngôi lăng mộ cổ nằm nổi hẳn bên sườn một quả đồi ở về phía
hữu ngạn sông Ô Giang, cách khu dân cư xóm Trầm Sơn chừng 800m về hướng nam.
Trầm Sơn là một vùng bán sơn địa với các dải thung lũng hẹp
nằm hai bên bờ sông, giữa những dải đồi trung sinh thấp và bồn địa trước núi. Ðây
là một xóm/phường (cũng có thể được coi là làng) thuộc địa giới hành chính xã
Hải Sơn - vốn là địa bàn tụ cư và sinh sống của một bộ phận cư dân Việt có gốc
ở làng An Thơ (xã Hải Hoà) di cư lên phía tây để lập nghiệp từ những thế kỷ
XVII - XVIII. Từ trong lịch sử, khu vực này không chỉ lưu danh bởi căn cứ địa
cuộc khởi nghĩa của một vị quan tướng triều Mạc Hoàng Bôi (1531 - 1544), mà còn
nổi tiếng bởi đặc sản chè Tước thiệt (chè lưỡi chim sẻ) - loại chè đến nay vẫn
được dân gian quen gọi là chè Mỹ Chánh.
Ngôi lăng mộ toạ lạc
trên một địa thế gần như hội đủ các yếu tố của thuật phong thuỷ. Ðứng ở vị trí
ngôi mộ, phóng tầm mắt nhìn ra bốn hướng mới thấy người xưa đã có một con
mắt khá tinh tường khi lựa chọn địa cuộc này để làm nơi yên nghĩ vĩnh hằng cho
tổ tiên của họ. Từ một quả đồi thoai thoải - dạng địa hình thềm bậc một của
sông Ô Giang - nằm cận kề và nổi hẳn bên bờ sông về phía nam, người ta đã san
phẳng một khu đất rộng ở mé trên triền đồi để giành cho việc xây dựng lăng mộ.
Tiếp giáp phía sau quả đồi này là một dãy gồm những quả đồi lớn nhỏ có bình độ
cao dần. Ðó chính là mặt sau - phần tựa lưng - hậu chẩm vững chắc cho khu lăng mộ. Hướng chính của khu lăng mộ mở ra về
phía Bắc, “tọa Tốn, hướng Càn kiêm Ðinh Hợi” (1). Từ trên triền
đồi nhìn ra phía trước, bên dưới là sông Ô Giang chảy ngang qua theo hướng tây
- đông tạo ra một minh đường thoáng, rộng nhờ không gian tương đối bằng phẳng
của dải thung lũng với ruộng vườn trù phú hai bên bờ sông hợp thành. Xa hơn về
hướng bắc là một quả đồi tương đối lớn nằm ở vị trí chính diện tạo nên một
tiền án khá chuẩn phía bắc sông. Ở về hai phía tả, hữu của khu lăng mộ có hai
dải đồi thấp (dưới chân đồi có hai dòng khe) chạy theo hướng tây bắc - đông nam
và đông nam - tây bắc chầu về tạo ra địa thế tả thanh long, hữu bạch hổ một
cách trọn vẹn. Có thể nói, nhìn toàn cảnh, địa cuộc của khu lăng mộ trông như một
bức tranh phong thuỷ hữu tình, có long mạch tiềm ẩn mà tạo hoá đã như sắp đặt
sẵn một huyệt đạo trước khi nó được chọn để đặt mộ phần của vị Ðội trưởng họ
Nguyễn Ðức. Có lẽ vì thế chăng mà nhiều thế hệ con cháu dòng họ này từ sau đó
đã phát tích nhiều nhân vật không chỉ đã làm rạng rỡ tổ tông của chính họ mà
còn đóng góp nhiều trí lực làm rạng danh cho quê hương, đất nước ? (!).
Ðiều gây ấn tượng nhất
về khu lăng mộ vị Ðội trưởng họ Nguyễn Ðức là sự quy mô, bề thế và sự tồn tại
khá nguyên vẹn của các công trình cấu thành lăng mộ. Toàn bộ công trình chiếm
một diện tích lên đến 400m2. Ðây có thể được coi là một trong số
những ngôi lăng mộ cổ có quy cách xây dựng khá đặc biệt và có quy mô lớn nhất
so với nhiều khu lăng mộ khác trên vùng Trị - Thiên dưới thời các chúa Nguyễn.
Có thể tạm so sánh với một số khu lăng mộ cổ thời chúa Nguyễn ở Quảng Trị theo bảng
sau:
TT
|
Tên di tích
|
Tổng diện tích công trình.
|
Hình dáng vòng ngoài thành lăng.
|
1
|
Khu lăng mộ Trần Ðình Ân (Hà Trung - Gio Linh)
|
142m2
|
Hình chữ nhật
|
2
|
Khu lăng mộ thời chúa Nguyễn ở Văn Quỹ (Hải Lăng)
|
118m2
|
Hình chữ nhật
|
3
|
Khu lăng mộ Ðội trưởng họ Nguyễn Ðức (Trầm Sơn - Hải Lăng.
|
400m2
|
Hình chữ nhật (xếp chồng) ở phía trước và hình oval phía sau.
|
Nhìn toàn cục, kiến trúc
lăng mộ vị Ðội trưởng họ Nguyễn Ðức được cấu trúc gồm hai phần: Phần phía trước
là một khoảng rộng, có thể xem như là khu vực bái đình, được tạo thành bởi hệ
thống tường thành và cổng trụ có kích thước dày và rộng, có hình dạng như hai
hình chữ nhật ghép song ngang, trùng khít với nhau và không có đường ranh giới,
tạo ra một hình đa diện gồm 8 cạnh nằm về 4 phía. Nói cách khác, khu bái đình
gồm hai lớp, lớp hình chữ nhật phía ngoài có cạnh dài hơn lớp hình chữ nhật
phía trong. Phần phía sau có thể xem như là khu tẩm - nơi đặt nấm mồ chủ nhân
cùng bia đá, được tạo thành bởi hai vòng uynh có hình oval. Với lối kiến trúc
như vậy, từ ngoài cổng đi vào đến phần mộ phải đi qua ba lần cửa lăng với đoạn
đường dài gần 10m.
Ở khu vực bái đình phía trước, sau khi đi qua một đoạn dốc
thoải là những bậc cấp dẫn vào cổng chính (rộng 2,97m) mở ra về phía trước với
hai trụ cổng tạo dáng hình vuông (0,72 x 0,72 x 1,07m), bên trên đỉnh hình chóp.
Nối liền hai trụ cổng về hai phía là đoạn tường thành thành án ngữ mặt tiền mỗi
bên chạy dài 8,29m, cao 1m. Từ cổng chính đi vào khoảng gần 5m là đến hai trụ
cổng mở ra về phía sau của khu bái đình cùng với hệ thống tường thành kéo dài
về hai phía tạo ra lối dẫn (rộng 2,4m) để đi vào khu tẩm và cũng là đường giới
hạn ngăn cách giữa khu bái đình phía trước và khu tẩm phía sau. Hai mảng tường
thành bao bọc khu bái đình ở về hai bên được liên kết với nhau bằng 4 trụ vuông
mỗi bên, có kích thước và hình dáng như trụ cổng, lượn theo đường gấp khúc tạo
thành mỗi bên có hai góc vuông. Chính hệ thống tường thành chạy gấp khúc về hai
phía cùng với hai mảng tường thành phía trước và sau (cao 1m, dày đến 0,82m) đã
tạo cho khu bái đình thành một mặt bằng có hình đa diện với hai lớp hình chữ
nhật (phía ngoài có cạnh dài hơn phía trong).
Ở khu vực tẩm phía sau, nhìn tổng thể có cấu trúc theo kiểu
một vòng tròn khép kín hình oval, được tạo thành bởi hai vòng thành - uynh
lăng, cách nhau một khoảng khá rộng (3,74m), có cửa mở ra khu bái đình phía trước;
chính giữa là ngôi mộ. Vòng thành ngoài giữ vai trò như là hệ thống tường bao
quanh (dày 0,82m), không được tạo dáng và cũng không được tô trát, ngoại trừ ý
đồ cố tình tạo ra độ võng của hai vòng cung hai bên để nhằm làm cho bức tường
thành có vẻ mền mại hơn bằng cách nâng cao dần chiều cao của tường thành từ 1m
đoạn ở giữa lên 2,90m ở phía sau và 2,13m ở phía trước trụ cổng dẫn vào khu vực
tẩm. Vì là cổng hậu của khu bái đình và là cửa chính (rộng 2,40m) đi vào khu
tẩm, giữ vai trò liên kết hệ thống tường thành (thấp hơn) phía trước và hệ
thống vòng uynh lăng (cao hơn) phía sau nên hai trụ cửa này có chiều cao vượt
hơn hẳn các trụ khác (2,13m). Hai trụ
cổng này cũng dạng hình trụ vuông, đỉnh hình tháp nhọn nhưng được xây thêm
những phần tua dãi, góc gấp và xoắn trôn ốc tại nơi tiếp giáp giữa thành lăng
và trụ cổng để tạo ra sự uy nghi, hài hoà của một ngôi lăng mộ có quy mô lớn.
Bậc cửa dưới chân hai trụ cổng được lát
bằng một phiến đá sa thạch với kích thước: 40cmx13cm x1,64m. Vòng thành trong
(cao 0,82m) chính là vòng uynh lăng bao quanh ngôi mộ, có cửa mở ra phía trước
(rộng 2,4m). Khác với vòng thành ngoài, vòng uynh trong được tô vữa, tạo dáng
công phu và mang tính mỹ thuật cao. Hai vòng cung hai bên tạo thành hình hai
con rồng - giao cách điệu chầu về phía cửa vào mà mỗi đầu rồng - giao chính là
đầu trụ cổng. Mô típ tạo hình là các vân xoắn trên thân và đường xoắn trôn ốc
(3 lớp) ở đầu. Ðặc biệt, ở về phía trước hai bên trụ cổng, để phá thế cứng cỏi
của vòng uynh, tạo ra tính đột khởi của trụ cổng nhằm làm cho nó mềm mại, uyển
chuyển trong khuôn khổ bố cục cho phép, người ta đã nối dài thêm hai mảng tường
thành bằng các mô típ trang trí vân xoắn được tạo dáng theo hình giao long nằm
ngữa (giống như các đầu đao gắn trên bộ mái các đình, chùa), lượn bẻ gấp một
góc chừng 200 so với vòng cung của uynh lăng, vươn ra phía trước, rẽ
về hai bên thành lăng.
Ðáng chú ý là đoạn sau cùng của vòng thành ngoài và vòng
uynh trong đều có một đoạn được xây cao và dày hơn hẳn các đoạn vòng thành - uynh
khác (vòng ngoài rộng 4,2m, cao 2,9m; vòng trong rộng 1,56m, cao 1,2m tạo dáng
như một cuốn thư trông như một bức bình phong để trấn giữ mặt sau của khu lăng
mộ.
Nằm chính giữa trung tâm của vòng uynh phía trong (cách
vách trong hơn 2m) là ngôi mộ của người quá cố - chủ nhân của khu lăng mộ - vị Ðội
trưởng họ Nguyễn Ðức. Ngôi mộ có hình oval, được cấu tạo thành ba lớp theo dạng
bậc cấp, nhỏ dần từ dưới lên (trung bình mỗi bậc cấp rộng 0,31m, cao 0,15m),
được đắp bằng vôi vữa (vôi hàu). Nấm mộ phía bên trên hình nửa quả trứng, có
chiều dài 2,07m, chiều rộng 1,47m, Phía trước ngôi mộ dựng một tấm bia bằng đá
sa thạch hình chữ nhật có kích thước: 0,68 x 0,15 x 1,03 (hiện đã bị sứt một
góc phía trên, bên phải). Mặt trước bia đá được chạm trổ khá công phu, khéo
léo với những đường nét uyển chuyển, dứt khoát. Trán bia trang trí hoa văn lưỡng
long chầu nguyệt. Hai bên diềm bia là hoa văn dây lá hoá long. Tấm bia được
đặt trên một bệ thờ bằng đá hình chữ nhật (0,75 x 1m), tạo dáng chân quỳ và
trang trí những hoa văn dây leo ở ba mặt xung quanh. Chính giữa lòng bia khắc
chìm một dòng chữ Hán (cỡ chữ 5,5cm): “Việt Cố Ðội trưởng nhưng Nguyễn hầu
chi mộ”. Hai từ “Việt Cố” vốn là những từ thường được dùng phổ biến dưới
thời các chúa Nguyễn (2), những chữ còn lại xác nhận chủ nhân của ngôi
mộ chính là vị cựu Ðội trưởng họ Nguyễn, được phong tước “hầu”. Mặt sau tấm
bia không có chạm khắc hoa văn, nhưng có một dòng chữ Hán ghi lại thời điểm tạo
lập bia mộ: “Cảnh Hưng tam thập nhị niên tuế thứ Tân Mão thập nguyệt nhị thập
tứ nhật tạo” (Lăng mộ được tạo lập vào ngày 24 tháng 10 năm Tân Mão, thời Cảnh
Hưng thứ 32 - tức năm 1771).
Ngoài ra, trong khu vực
tẩm, trên khoảng đất rộng giữa hai vòng thành lăng về phía bên phải còn có một
miếu thờ; ở đó có bệ thờ bằng đá, bên trên dựng một tấm bia có ghi hai chữ Hán:
“Thổ Thần” được con cháu của người quá cố lập nên để thờ
thần đất - vị thần trông coi phần đất, lăng mộ cho tổ tiên họ.
Kết cấu của hệ thống trụ, trụ cổng, tường thành, vòng uynh,
nấm mộ chủ yếu được sử dụng bằng các chất liệu đá khác nhau như: đá phiến
thạch, đá cuội, đá bazan... được kết dính bởi loại vữa truyền thống: vôi hàu +
mật mía + nhựa thực vật. Hiện tại, có nhiều mảng trang trí, tô trát trong khu
vực lăng mộ được sử dụng bằng vật liệu vữa xi măng; đó là dấu vết của những lần
tu bổ, sửa chữa về sau này.
Một điều không thể không
nói đến là toàn bộ khu lăng mộ được đặt trên triền đồi nên để xử lý việc nước
ứ lại về mùa mưa, nhất là ở bên trong thành lăng và xung quanh ngôi mộ, những
người thợ xây dựng đã cố tình tạo ra một mặt phẳng có độ nghiêng nhất định về
phía trước; đồng thời, tại các góc dưới chân thành lăng còn đặt một số máng
bằng đá để thoát nước từ trong ra phía ngoài.
Bên cạnh lăng mộ được
xây dựng quy mô, bề thế của vị Ðội trưởng họ Nguyễn Ðức như đã nói trên, ở mé
triền dưới của quả đồi còn có thêm một số ngôi mộ khác thuộc con cháu dòng họ
Nguyễn Ðức, có cùng cách thức, kỹ thuật nhưng có niên đại khởi tạo sau đó ít
lâu và quy mô nhỏ hơn, hiện đã bị hư hại phần lớn. Ngôi thứ nhất nằm cách ngôi
mộ của vị Ðội trưởng khoảng 100m về phía đông bắc. Dấu tích còn lại của ngôi
mộ này là bốn trụ cổng, bức bình phong phía sau, một số đoạn thành lăng và nấm
mồ. Tất cả chỉ tọa lạc trên một diện tích 80m2. Ngôi thứ hai và ba
cách ngôi thứ nhất khoảng 300m về phía đông bắc. Hai ngôi này chỉ còn lại nấm
mồ và một vài đoạn thành lăng, bình phong...
Như vậy, nhóm lăng mộ ở xóm Trầm Sơn, xã Hải Sơn, huyện Hải
Lăng là nhóm lăng mộ được hình thành từ thời các chúa Nguyễn. Ðặc biệt, sự tồn
tại còn nguyên vẹn và quy mô được xếp vào hàng lớn nhất trong khu vực (ít nhất
là địa bàn Quảng Trị) của ngôi lăng mộ vị Ðội trưởng Nguyễn hầu là một di tích
quan trọng, có giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật...
cần được giữ gìn như là một di sản văn hoá của vùng đất Quảng Trị.
... Ðến một dòng họ có truyền thống khoa bảng,
nghiệp quan
Vị cựu Ðội trưởng họ
Nguyễn Ðức - chủ nhân của ngôi lăng mộ như đã nói trên, ghi trong gia phả của
dòng họ Nguyễn Ðức, làng An Thơ có tên là Nguyễn Ðức Uyên. Ông thuộc thế hệ thứ
8 kể từ khi vị thuỷ tổ của dòng họ này đến định cư trên vùng đất bên bờ bắc
dòng sông Ô Giang/Lâu thơ mộng.
Làng An Thơ là một làng cổ được hình thành từ khá sớm trong
lịch sử (nửa cuối thế kỷ XV). Dòng họ Nguyễn Ðức là một trong số những dòng họ
được coi là tiền khai khẩn ra làng An Thơ, đến nay đã qua 24 đời. Ðây là một
dòng họ vốn có truyền thống khoa bảng, nghiệp quan từ lâu đời. Trải qua nhiều
thời kỳ, những người con dân trong họ đã có người từng giữ chức Thượng thư,
Chính dinh tướng thần, có người đỗ đạt tiến sĩ, có người làm quan lớn ở các
địa phương... Họ đã từng cống hiến nhiều trí lực cho công cuộc xây dựng, bảo
vệ quê hương, đất nước và bồi đắp ngày càng dày thêm truyền thống tổ tiên, họ
mạc.
Nhà thờ họ Nguyễn Ðức là một công trình kiến trúc chứa đựng
nhiều giá trị về lịch sử, văn hoá, khoa học do nhiều thế hệ con cháu tạo dựng
và hiện nay còn lưu giữ một số tư liệu rất quý; trong đó đáng chú ý là bản gia
phả được phụng soạn từ năm Cảnh Hưng thứ hai (1741) và bản gia phả từ thời
Thành Thái thứ 12 (1900), bức bát quái có từ năm Minh Mạng thứ 13 (1832)... và
nhất là 15 bản khắc gỗ gắn trong nhà thờ ghi 15 bài thơ bằng chữ Hán (làm dưới
thời Tự Ðức) có nội dung nói về việc đối nhân xử thế và khuyên dạy con cháu
trong họ tộc noi theo việc nhân nghĩa... Tiêu biểu như bài thơ:
Vật như thiện
đắc chung vị mỹ.
Sự đáo xảo đồ
an hữu công.
Bất
tác phong ba ư thế thượng.
Tự
vô băng thán đáo hưng trung.
Tai
ương thu diệp sương tiền truỵ.
Phú
quý xuân hoa vũ hậu hồng.
Tạo hoá phân
minh nhân mạc hội.
Khô
vinh tiêu đắc kỷ hà công.
Dịch nghĩa:
Sự vật nếu khéo léo
chiếm được rút cuộc mới là mỹ mãn.
Việc do mưu mô xảo trá
làm sao gọi là vì lợi ích chung.
Chẳng nên gây sóng gió ở
trên đời.
Tự nhiên không có sự
nóng lạnh ở trong lòng.
Tai hoạ sẽ như lá thu rơi rụng trước sương móc.
Giàu sang sẽ nở rộ như hoa xuân nở đỏ rực sau cơn mưa.
Tạo hoá vốn phân minh người ta chẳng mấy ai hiểu được.
Héo khô hay tươi tốt, hao tổn mấy kẻ biết được công lao (3).
Ngôi từ đường này đã được nhà nước xếp hạng di tích cấp
tỉnh theo quyết định số 2187/QÐ-UB ngày 15/7/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng
Trị.
Thân phụ Nguyễn Ðức Uyên là Nguyễn Ðức Trạch, thân mẫu là Nguyễn
Thị Thăng. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại, có 4 anh em (3 trai, 1
gái), lớn lên theo phò chúa Nguyễn. Người anh cả của ông là Nguyễn Ðức Phủ từng
giữ chức Chính dinh Tướng thần Lại ty Cai hợp (4), được phong tước
Bình An tử.
Nguyễn Ðức Uyên từng làm quan dưới thời chúa Nguyễn Phúc
Chú (1725 - 1738), Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765), giữ chức Ðội trưởng. Rất tiếc
là các tài liệu hiện có không thể cho biết gì thêm về việc ông làm Ðội trưởng
của Ðội nào, ở đâu? (Rất có thể ông được các chúa Nguyễn cử giữ việc cai quản
đầu nguồn Hải Lăng để đảm đương việc thu thuế, lệ đầu nguồn Ô Lâu như một hạt
kiểm lâm bây giờ). Căn cứ vào niên đại khởi tạo của bia mộ hiện còn, có thể xác
định năm mất của Nguyễn Ðức Uyên là dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần, trước năm
dựng bia (1771) chừng một vài năm. Khi mất được phong Anh nghi Tướng quân Ðội
trưởng, tước là Phương danh hầu (5) (hàng thứ hai trong hệ thống
tước hiệu: công - hầu - bá - tử - nam).
Nguyễn Ðức Uyên có 3 người vợ, sinh hạ được 9 người con
(vợ cả tên là Tình, sinh 2 con gái, 1 con trai; vợ thứ tên là Lâu, sinh 2 con
trai, 1 con gái; vợ thứ ba tên là Sử, sinh 3 con trai). Những người con trai
của ông nhiều người đã từng giữ những chức vị quan trọng trong bộ máy chính
quyền cuối thời chúa Nguyễn và đầu triều đại vua Nguyễn: Nguyễn Ðức Diễn làm ở
Nha Thượng bảo tự (cơ quan chuyên trách đóng ấn các cuộc thi Hội), phẩm trật
là Thượng bảo khanh, rồi giữ chức Chính dinh Tướng thần Lại ty, tước là Hữu
Ðức bá; Nguyễn Ðức Lưu từng là Quốc trụ, là quan của Nha Quang lộc tự (cơ quan
chuyên lo lễ vật để tế, lễ, yến tiệc của triều đình), phẩm Thượng khanh, tước
là Thục thận hầu; Nguyễn Ðức Hoảng nguyên là Tri phủ, tước Toàn Mỹ tử; Nguyễn Ðức
Trị là Ðội trưởng, tước Vân Long hầu; Nguyễn Ðức Hạp là Tri huyện, tước Cần
Giang tử... (6). Chính các con của Ðội trưởng Nguyễn Ðức Uyên nhờ
vào thế lực của mình đã cùng nhau xây lăng mộ cho cha. Ðiều này lý giải vì sao
lăng mộ của một vị Ðội trưởng lại có quy mô tầm cỡ có thể sánh ngang hàng với
các quan đại thần và vua chúa đương thời; trong khi đó vị trí lăng mộ lại nằm ở
một nơi xa xôi, hẻo lánh, việc vận chuyển nguyên vật liệu vô cùng khó khăn,
phức tạp đòi hỏi phải tốn nhiều vật lực, tiền của. Mặt khác, ở vào thời điểm
này (năm 1771) vùng đất Thuận Hóa đang là nơi xảy ra các cuộc chiến tranh giữa
Trịnh và Nguyễn, Trịnh - Mạc, ngoại xâm từ phía tây... nên việc xây dựng lăng mộ
quy mô lớn chưa bị triều đình cấm đoán.
Ngoài những người con của ông Nguyễn Ðức Uyên, trong toàn
dòng họ Nguyễn Ðức có rất nhiều nhân vật khá nổi danh qua các thời kỳ; có người
tên tuổi của họ đã đi vào chính sử của dân tộc.
Một người của họ Nguyễn Ðức cùng đời với các con của
Nguyễn Ðức Uyên là Nguyễn Ðức Thuần đã từng giữ chức Chính dinh Tướng thần Lại ty
Thủ hợp, tước hiệu Cẩn đức tử. Ðến đời thứ 10, họ Nguyễn Ðức có gần 10 người
làm quan cho triều đình nhà Nguyễn như Nguyễn Ðức Vĩnh chuyên lo về huyện sự ở
tỉnh Nghệ An; Nguyễn Ðức Hoàng ở Hàn Lâm viện; Nguyễn Ðức Thù, Tứ, Triệt, Tuấn,
Dũng, Tân, Trạc... đều có tước “hầu”, “tử”, “bá”, giữ các chức quan ở trong triều đình hoặc các địa phương.
Ðặc biệt, đến đời thứ
11, có Nguyễn Ðức Hoạt tuy chỉ đỗ Cử nhân (khoa Ất Dậu - Minh Mạng thứ 6 -
1825) (7) nhưng đã từng làm quan đến chức Thượng thư bộ Binh kiêm
Tả đô Ðô sát viện (Cơ quan tham mưu tối cao cho nhà vua), rồi làm Tổng đốc Gia
Ðịnh - Biên Hòa, Ðề đốc Quân vụ...
Khoa thi Ðình năm Ất Mùi
(Minh Mạng thứ 16 - 1835), dòng họ Nguyễn Ðức vinh hiển có Nguyễn Ðức Hoan (đời
thứ 12) đỗ Ðệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân lúc 31 tuổi, giữ chức Biên tu Hàn
lâm viện, rồi làm Tuần phủ phủ Khánh Hòa (8).
Tiếp theo, khoa thi Ðình
năm Ðinh Mùi (Thiệu Trị thứ 7 - 1847), họ Nguyễn lại có thêm Nguyễn Ðức Tư
(còn gọi là Ty - đời thứ 12) đỗ Tiến sĩ năm 33 tuổi, sau đó thăng thụ Tri phủ
phủ Tĩnh Gia (9).
Con của Thượng thư
Nguyễn Ðức Hoạt là Nguyễn Ðức Duật (gia phả bản chữ quốc ngữ ghi là Mậu) đã được
vua Minh Mạng chọn làm Phò mã cho An Phúc công chúa Thận Huy, con gái thứ 23
của vua Thiệu Trị, được phong là Phò mã Ðô úy, sau này hai người mất, được
vua ban hợp thờ ở đền Thân Huân (10). Cũng ở đời thứ 12 này, còn có
Nguyễn Ðức Chuẩn làm ở Ty phiên Quảng Bình; Nguyễn Ðức Hiển là Thị giảng Hàn
lâm viện...
Ðời thứ 13 có Nguyễn Ðức
Vỹ hàm Tam phẩm, Thiếu khanh ở Nha Quang lộc tự. Ðời thứ 14 có Nguyễn Ðức Ðàn
đỗ Cử nhân, phẩm là Hồng lô Tự khanh, giữ chức Tri huyện Hoài Ân... Ngoài ra
còn rất nhiều người trong dòng họ từng làm quan ở các địa phương trong cả nước.
Ðiều lý thú là nếu như
đời nào của dòng họ Nguyễn Ðức cũng có người đàn ông đỗ đạt, làm quan thì con
gái dòng họ này cũng có nơi nương tựa thật “môn đăng hộ đối”. Nguyễn Thị Kiên
(đời thứ 12) lấy Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển; Nguyễn Thị Cầm là vợ của Tổng đốc
An - Hà Hoàng Thu; Nguyễn Thị Thuận là phu nhân của Tuần phủ Quảng Trị Cao Hữu
Sung; Nguyễn Thị Biện được gả cho Gia hưng quận vương Hồng Hựu, con của vua
Thiệu Trị; Nguyễn Thị Thiện làm vợ của Tuần vũ Phong Xuyên Nguyễn Ðình Thiêm.
Ðời thứ 13 có Nguyễn Thị
Cầu được gả cho Hoài đức Quận vương Miên Lâm, con trai thứ 57 của vua Minh
Mạng; Nguyễn Thị Vọ gả cho Ðịnh Viễn Quận vương, Nguyễn Thị Ðề gả cho hoàng tử
Hồng Hoằng... Và lý thú hơn nữa là Tuy lý vương Miên Trinh, con trai thứ 11
của vua Minh Mạng, một người làm thơ phú nổi tiếng của triều Tự Ðức cũng đã chọn
cô gái họ Nguyễn Ðức tên là Nền (có bản gia phả ghi là Niên) lấy làm vợ (11)...
Kế tục truyền thống của
ông cha, các thế hệ sau này của dòng họ Nguyễn Ðức đã ra sức học tập, xây dựng
quê hương, đất nước. Từ sau 1975 đến nay, dòng họ Nguyễn Ðức đã có rất nhiều
người công thành danh toại. Hàng chục bác sĩ, kỹ sư, cử nhân của họ Nguyễn
Ðức đã có nhiều đóng góp cho quê hương, đất nước, nhiều vị đã và đang giữ
nhiều chức vụ lãnh đạo ở một số ngành như Tổng Công ty Dược Việt Nam, Khu
gang thép Thái Nguyên, Trường Ðại học Bách khoa Hà Nội, Bệnh viện Y học dân
tộc Bình Trị Thiên, LHXN Ðường sắt Bình Trị Thiên...
*
* *
Từ chuyện phát hiện thêm những điều còn ít được biết đến về
nhóm lăng mộ cổ thời chúa Nguyễn ở Trầm Sơn (Hải Sơn, Hải Lăng) đến việc tìm
hiểu truyền thống khoa bảng, nghiệp quan của một dòng họ đã mang lại những nhận
thức mới và đầy đủ hơn về những vấn đề liên quan đến lịch sử, văn hoá của một
vùng đất phía nam Quảng Trị, bên dòng sông Ô Lâu. Các giá trị tiềm ẩn trong khu
lăng mộ đã không chỉ cung cấp nhiều thông tin bổ ích về qui cách, kỹ thuật,
nghệ thuật xây dựng lăng mộ đương thời mà còn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
lịch sử của công cuộc mở mang vùng đất phía tây Hải Lăng từ những thế kỷ XVII -
XVIII. Bên cạnh đó, những giá trị truyền thống quý báu của một dòng họ danh
tiếng với những nhân vật lịch sử từng có những vai trò khá quan trọng dưới thời
phong kiến trải nhiều thời kỳ đã được liên tục lưu giữ, kế thừa qua từng thế hệ
không chỉ là những tư liệu bổ ích, giúp cho việc tìm hiểu một cách đầy đủ hơn
về nét đẹp của con người Quảng Trị mà còn góp phần tăng thêm niềm tự hào về
truyền thống quê hương. Từ đó đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo tồn và phát
huy di sản văn hoá trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Vùng đất Quảng Trị là nơi đã từng bị bao cuộc chiến tranh
khốc liệt tàn phá; các giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể từng bị
mất mát, hư hại khá nhiều. Vì vậy, sự tồn tại một cách khá nguyên vẹn cho đến
tận ngày nay của những di tích như khu lăng mộ cổ ở Trầm Sơn, nhà thờ họ
Nguyễn Ðức cùng nhiều di vật lịch sử, văn hoá khác thuộc dòng họ Nguyễn Ðức ở
làng An Thơ, xã Hải Hoà xứng đáng được coi là những di sản văn hoá cần được
trân trọng, giữ gìn và phát huy./.
------------------
Chú thích:
(1) Dẫn theo: Gia phả của họ Nguyễn Ðức ở làng An Thơ, xã Hải Hòa,
huyện Hải Lăng - Bản chữ Hán lập năm Cảnh Hưng thứ hai (1741), hiện đang được
lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Ðức.
(2) Xem thêm: Nguyễn Hữu Thông. Nhóm lăng mộ thời các chúa Nguyễn mới
phát hiện ở Quảng Trị. Xưa và nay, số
100 tháng 9/2001, trang 21.
(3) Theo: Những bài thơ cổ ở nhà thờ họ Nguyễn Ðức. Hoàng Hồng Cẩm
dịch. Tài liệu đánh máy vi tính. 2003. Bản lưu tại nhà thờ họ Nguyễn Ðức.
(4) Theo Ðại Nam thực lục tiền biên (tr. 47) thì vào năm 1614, bắt đầu
đặt Tam ty (Bộ máy hành chính của một địa phương tương đương cấp tỉnh) gồm Ty
Xá sai, Ty Tướng thần lại và Ty Lệnh Sử.
(5), (6). Theo Gia phả họ Nguyễn Ðức. Tài liệu đã dẫn.
(7). Theo: Gia phả họ Nguyễn Ðức. Bản soạn năm Thành Thái thứ 12. 1900.
Hiện lưu giữ ở nhà thờ họ Nguyễn Ðức.
(8), (9). Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế. Khoa cử và các nhà khoa
bảng triều Nguyễn. Nxb Thuận Hóa, 2000.
(10) Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðại Nam liệt truyện (Nhị tập, Quyển 8).
Nxb Thuận Hóa, 1997, tr. 163.
(11). Theo: Gia phả họ Nguyễn Ðức. Bản soạn năm Thành Thái thứ 12. Tài
liệu đã dẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét