Ban Quản Trị

Thư từ bài vở xin gởi về:
Nguyễn Điền: nguyendienhl@gmail.com - Nguyễn Lê Hiếu: lehieunguyen91@gmail.com - Triều Nguyên: baolongspkt@gmail.com, luongdienhaison@gmail.com, ngkhacphuoc@gmail.com


Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

Thơ xướng họa của Lê Trưởng Hưởng và Trần Ngộ

Thơ mời họa:
PHỤ NỮ VIỆT NAM

Liễu yếu đào tơ vóc mảnh mai
Mà đời gánh nặng cả hai vai
Gia đình tổ ấm chăm lo đảm
Đất nước nhà chung góp sức tài
Son sắt lời thề luôn giữ vững
Thủy chung ước hẹn chẳng đơn sai
Vị tha độ lượng đầy nhân hậu
Bất khuất anh hùng chẳng kém ai

LÊ TRƯỞNG HƯỞNG



Bài họa:
PHỤ NỮ ANH HÙNG



Phận liễu thân bồ dáng mỏng mai
Nước nhà phụ nữ gánh chung vai
Bền tâm chiến đấu tăng gia giỏi
Vững chí thi đua sản xuất tài
Trung hậu kiên cường luôn giữ đúng
Đảm đang bất khuất mấy khi sai
Triệu Trưng còn thắm thơm dòng máu
Dũng cảm anh hùng chẳng sợ ai 

Trần Ngộ 
Tên thật: Dương Công Nghệ
Chánh quán HÀ LỖ, HẢI TÂN, HẢI LĂNG
Hiện cư trú tại Bảo Lôc, Lâm Đồng
Kính tặng Lương Điền - Hải Sơn nhân ngày phụ nữ VIÊT NAM

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

THƯ GỞI NGOẠI - Thơ cụ Nguyễn Đình Chung


Tôi tên là Bao Bố, nay cậu tôi đặt lại là Vạn Kim, có mấy lời gửi về thăm Mự (mẹ), kể lại lịch sử cho quí Cậu, quí Dì biết:

   Tiết Xuân mai hãy còn huê (hoa)
Làm thư một bức gửi về Kim Long
   Mẹ tôi thác xuống âm cung
Vì không nội trợ trong lòng xót xa
   Cậu tôi bối rối việc nhà
Bèn đi cưới Mự bôn ba đem về
   Tưởng rằng Cậu Mự đề huề
Không hay Mự phá một bề tan hoang
   Cửa nhà bán hết mọi đàng
Hương hỏa, tự sự bán tan còn gì
   Ghế ngựa cho đến ghế nghi
Ghế bành sáu cái còn gì Mự ơi?
   Hương án thờ ông bà tôi
Bình sành một cặp treo côi cột nhà
   Bể sành một chậu Hải Ba
Bông sành, lá thép Mự mà bán xong
   Nào rương nào tủ giường mùng
Nào dĩa nào bát bán xong thay là
   Bức bản treo giữa căn nhà
Vẫn đồ tự sự ông bà xưa nay
   Nào cối nào xối nào xay
Thau kên, cụi mắm ngày rày chẳng lưa
   Ván liệt nhà gác chẳng chừa
Đòn tay tháo bán chẳng lưa vật gì
   Mự ơi! Mự thiệt vô nghì
Cậu tôi đến chốn kinh kỳ làm ăn
   Mự theo Mự đón, mự ngăn
Ô tô đón lại nằm lăn giữa đường
   Chợ “Cống” đủ mặt các quan
Họ tai họ bớp, rõ ràng Mự ơi!
   Mự làm xấu hổ Cậu tôi
Cậu tôi để Mự lôi thôi nỗi gì?
   Gia tài bán hết còn chi
Mự đành hai chữ phản qui cho rồi
   Trách ai bạc ác vô hồi
Than rằng: Ấu tử mồ côi một mình
   Hay là con tạo trớ trinh
Cắt gan trường đoạn sao đành mẫu thân
   Nay chữ lỗi đạo chậu trần
Cậu tôi nể Mự, Mự đừng bỏ con
   Còn trời còn nước còn non
Còn khôn còn lớn mự còn cậy trông
   Phận con thơ dại ấu xung
Sao đành Mự bỏ giữa dòng đào nguyên
   Kim Long cách dặm xa miền
Ruột tằm chín khúc Lương Điền chon von
   Mự về cách nước cách non
Con thường nhìn bóng Mự còn ở đây
   Lạy trời phò hộ con rầy
Cưu mang chín tháng có ngày đền ơn
   Ơn Mự trong dạ keo sơn
Trăm năm khắc cốt chẳng sờn khi nao
   Ơn ai ở dạ gươm đao
Con chồng đày đọa toan hầu bỏ đi
   Một anh thác ở Nam Kỳ
Một anh chưa biết ở thì nơi nao
   Ơn Mự nhớ lại quặn đau
Ấu nhi năm tháng lo âu ăn mày
   Bồng xin khắp hết đông tây
Thừa Thiên, Quảng Trị ngày nay biết tài
   Người cho sắn, kẻ cho khoai
Người cho loong gạo, kẻ vài đồng xu
   Mự sao ở dạ mưu sâu
Nắng lửa mưa dầu nằm đất nằm đai
   Thân con đổ ghẻ đổ sài
Cheo leo theo Mự nằm ngoài nắng sương
   Không cho nằm chiếu nằm giường
Cheo leo theo Mự xóm giềng kêu van
   Làm chi đến xóm đến làng
Mự làm đến phủ, đến quan làm gì?
   Con trách cậu Phúng, cậu Thi
Dì Ính, dì Nọi vô nghì lắm thay
   Tự con xa Mự đến nay
Đói cơm khát sữa ngày ngày biết không?
   Mự đòi mỗi tháng ba đồng
Mự ăn con nhịn sướng sung nỗi gì?
   Mự sao vụng nghĩ vụng suy?
Mự không biết chữ vu qui thế nào
   Tam tòng tứ đức là sao
Công dung nữ hạnh ra vào hẳn huyên
   Bắc thang Mự hỏi hoàng thiên
Số Mự sao chẳng chánh nguyên một chồng?
   Hay là số Mự chẳng cung?
Hay là số Mự má hồng vô duyên?
   Hay Mự tham chốn phú quyền?
Để Mự quyết phá cho liền Mự ra
   Hay là số Mự đào ba?
Xui Mự ăn ở phôi pha làm vầy
   Hay là số mạng con rầy?
Mồ côi không mẹ đọa đày thân con
   Còn trời còn nước còn non
Tiếng mự ghi để sắt son dạ đời
   Kim Long cách dặm xa khơi
Lương Điền con gửi vài lời kính thăm.

Mùa xuân năm Tân Tỵ, nhất nguyệt nhị thập nhất nhất – Kính bút
(Nguyên tác của ông thân sinh tôi là Nguyễn Đình Chung. Nguyễn Thiên Định ghi chú)






Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

THƠ MỪNG LỄ THÀNH HÔN - Thơ của cụ Nguyễn Đình Chung, thân sinh của bác Nguyễn Thiên Định


Bài này ông nội viết mừng lễ cưới của bác. 
(Ghi chú của Nguyễn Bảo Long)


THƠ MỪNG LỄ THÀNH HÔN

Năm Quý Tỵ * tháng chín
Ngày hai bảy vừa qua
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Độc lập - tự do - hạnh phúc
Nay cưới hỏi không dùng cổ tục
Hai gia đình theo cách văn minh
Hai gia đình thương lượng thỏa tình
Nay thiết lễ thành hôn đôi trẻ
Đời phong kiến đế quốc định lệ
Nào nữ trang nào áo nào bông
Nào heo xôi, rượu ché, cau lồng
Nay dân chủ bây giờ triệt để
Mâm trầu này gọi là sính lễ
Tiệc trà này hai họ tương thân
Xin hoan nghênh tất cả muôn phần
Mừng cưới hỏi theo đời sống mới
Chúc đôi trẻ ăn mần tấn tới
Nguyên Lương, Quy con của dồi dào
Để thi đua cho kịp phong trào
Trong giai đoạn vinh quang sắp tới.

Nguyễn Bảo Long, cháu nội của cụ Nguyễn Đình Chung, gởi đăng.
baolong.spkt@gmail.com

***

*Quý Tỵ nhằm vào năm 1953

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

TẾT QUÊ NHÀ - TẾT THA PHƯƠNG - thơ xướng họa của Trương đăng Sử và Lê Văn Thanh


Bài xướng:             
               TẾT QUÊ NHÀ

               Vui xuân ngồi tựa gốc sung già
               Ngắm cảnh mai vàng nở rộ hoa
               Nhộn nhịp làng trên vang tiếng hát
               Tưng bừng xóm dưới tỏa câu ca
               Anh em lui tới tình chan chứa
               Bè bạn lại qua nghĩa đậm đà
               Danh lợi nhục vinh không vướng bận
               Mừng xuân vui hưởng tết quê nhà

                                                 Trương Đăng Sử
                                             Hà Lộc, Hải Sơn, Hải Lăng, Q.Trị



                          
 Bài họa: 
                TẾT THA PHƯƠNG

                Tha phương đếm tuổi gốc mai già
                Mỗi độ xuân về thắm sắc hoa
                Ngẫm đến quê hương tràn nỗi nhớ
                Đón mừng đất khách rộn lời ca
                Cháu con dâu rể thêm thân thiết
                Bè bạn anh em chẳng điệu đà
                Như thể xa nguồn vui biển cả
                Tha phương... đâu cũng nước non nhà.
                                                   
Lê Văn Thanh
                                 Châu Đức - BRVT. 
Đt: 01696088466
Bài họa:

TẾT QUÊ HƯƠNG

Bảy bảy mùa xuân chửa thấy già
Đời trong như ngọc thắm dường hoa
Thi thơ nô nức đêm ngày vịnh
Đàn nhạc tưng bừng sáng tối ca
Sân trước hàng tùng xanh mướt lá
Bên hiên khóm trúc uốn la đà
Trời thương Phật độ thường an lạc
Đón tết khang trang đẹp cảnh nhà.

Trần Ngộ
Bảo Lộc, Lâm Đồng

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

CÁO TẬT THỊ CHÚNG và THƯ PHÁP TRÊN MÁY TÍNH - Lê Đăng Mành kính tặng

                    CÁO TẬT THỊ CHÚNG

                    THIỀN SƯ MÃN GIÁC (1052-1096)
                    Đời thứ 8 thuộc dòng Thiền VÔ NGÔN THÔNG  
  

Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

NHỮNG TÊN LÀNG CÓ TỪ "KẺ" TRONG VÙNG HẢI LĂNG - Nguyễn Văn Hiền


Từ thời khai sơn lập làng cho đến các đời chúa Nguyễn và sau nầy là Triều Nguyễn, một số làng lân cận trong vùng thuộc Huyện Hải Lăng bao gồm Tổng Câu Hoan và Tổng An Thơ có tên bắt đầu bằng từ Kẻ.

Khi tôi lớn lên đã nghe người dân trong vùng gọi đến tiếng Kẻ như chợ Kẻ Diên thuộc xã Hải Thọ, làng Kẻ Lạng Thuộc xã Hải Sơn, làng Kẻ Văn thuộc xã Hải Văn nay là xã Hải Tân, làng Kẻ Vịnh thuộc xã Hải Kinh nay là Hải Hòa và làng Kẻ Phù thuộc xã Phong Bình bên kia bờ sông Ô Lâu tỉnh Thừa Thiên.

BỜ SÔNG PHÍA LƯƠNG ĐIỀN - Võ Văn Hoa

Lương Điền lúc rạng đông

* Thân tặng bạn thơ Nguyễn Khắc Phước


Tôi về trên đất bạn hiền
Bờ sông ở phía Lương Điền* nắng lên
Vực kè đang được xây thêm
Phong lưu** cổ thụ trước thềm đình xưa!
Dẫu qua tháng nắng ngày mưa
Ô Lâu trầm mặc ai chưa biết buồn?
Sông dài từ phía đầu nguồn
Bên bồi bên lỡ gió luồn qua vai
Dặm dài ký ức thời trai
Còn trong bóng nắng bóng ai ... nhòa cùng!
                 
09-10/8/2010
                 VÕ VĂN HOA


*: Thuộc xã Hải Sơn, Hải Lăng, Quảng Trị
** : Trước đình làng Lương Điền có cây Phong lưu:
Tương truyền của cụ Thụy Khê
Lấy từ nước bạn đem về trồng đây!
Cây có đặc điểm sáng lá mở ra, chiều khép lại (nhà giáo Nguyễn Hữu Trung ở đây cung cấp)

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

MỘT TIẾT TRỐNG TRONG PHÒNG HỘI ĐỒNG NHÀ TRƯỜNG - Truyện ngắn Nguyễn Bá Trình

Tác giả Nguyễn Bá Trình

    Năm nay trời mưa ghê. Bây giờ đã là ngày hai mươi mốt  tháng mười một.Vậy là ngày Hiến chương Nhà giáo đã trôi qua một ngày.
    Không nhớ cơn mưa bắt đầu từ khi nào, nhưng ít ra cũng trên nửa tuần nay rồi. Trời ơi, mưa gì dễ sợ, đêm nào cũng vậy, cứ thức giấc là nghe ngoài trời ầm ầm ào ào giống như mình đang đi xe lửa.
Từ phòng hội đồng nhà trường nhìn ra, Thúy Lan thấy mấy tán cây cúi oằn xuống dưới mưa, cái dáng như thể ai đó đang xõa tóc gội đầu. Có lẽ nó đang thỏa thích, vì vừa trải qua một mùa nắng nóng kéo dài gần bốn năm tháng.

Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

TÌM HIỂU VỀ CÁC LOẠI ĐẶC SẢN CỦA HAI BÊN BỜ SÔNG Ô LÂU ĐẾN PHÁ TAM GIANG - Nguyễn Văn Hiền

             Trước tiên, ta đi từ làng Tân Điền thuộc xã Hải Sơn, người dân ở đây trồng cây Chè đã từ lâu đời. "Chè Lương Điền” tuy trồng tại đất Lương Điền nhưng lại mang cái tên là "chè Mỹ Chánh", cũng ngang hàng với chè Truồi ở Phú Lộc - Huế, nước rất xanh và đậm đà, sau mỗi bữa ăn xong, uống vào một bát thì không có gì bằng. Người dân ở đây ngày nào cũng có chè để bán nhưng đến mùa thu hoạch rộ thì họ đưa đi chợ Mỹ Chánh, Ưu Điềm và nhiều nơi khác, đặc biệt là gánh đi bán rong cho các làng lân cận vào những ngày mùa thu hoạch lúa. Tờ mờ sáng là họ bắt đầu quang gánh ra đi rao bán từ làng Câu Nhi về tận làng Phú Kinh xã Hải Hoà, bán hết hàng là đi bộ lên, đoạn đường khoảng trên dưới 10km. Hiện nay chè Mỹ Chánh đưa đi khắp nơi, ra đến tận Thị xã Quảng Trị, thành phố Đông Hà, Gio Linh, Vĩnh Linh ..., ngày nay thì phương tiện vận chuyển và đi lại thuận lợi hơn nên họ đưa đi bán bằng xe ô tô, xe đạp, xe máy.

Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

Hiến Minh - NƠI ẤY LÀNG QUÊ

Cồng tam quan nhà thờ họ Nguyễn làng Lương Điền 


Làng quê ấy có tên Lương Điền
Bên dòng sông mát ngọt Ô Lâu
Mang cái tên thanh âm dịu nhẹ
Nếp ân tình đời đã trộm yêu

Đời trộm yêu em mái tóc dài
Thơm hương bồ kết thuở mười hai
Thương đôi mắt đen màu bồ hóng
Má ửng bần quân nắng Bến Doi

Nơi địa linh vang bóng một thời
Binh hùng, oai Chúa (*1) dậy phương xa
Mô súng tầm cao soi bóng giặc
Bãi Voi, Trưa Ngựa, trấn Sơn Hà

Nơi những chàng trai bước lữ hành
Thác Ma tự cổ suối ân tình
Bao kiếp tha phương hoài cố quận
Dâng nguồn cảm khái phút xao lòng

Nơi ấy nhen lên vạn ý tình
Nhớ Cồn Lại Chó hái mốc sim
Tắm bãi Cồn Tàu mò ốc hến
Ướp hương chanh sả biết mô tìm

Nơi lưỡi còn răm ngứa đáu nưa
Ớt tươi muối hột chắm chiều mưa
Nơi có vườn cau thi nhau bạp
Bắt chim rặt rặt... Mạ ăn trầu

Nơi ngút mắt xa bãi lúa vàng
Đồng Đưng, Sép Nội đệ nhất điền
Trắng cánh có thơm bèo Bến Đội
No dưa chuối kiệu, nấm hương tràm

Nơi ngọt canh khoai đỏ tép đồng
Trộn rau xục xạc, nước Khe Rồng
Ấm lửa rơm cả nhà chan húp
Mắt xè cay tháng rét thu đông

Nơi đó say đâu chỉ một lần
Con Dề, con Mạp thuở tung hoành
Con Cui dưới Làng Rào khiếp bóng
Chú Chảng cụp đuôi bãi Phú Xuân

Nơi có chàng trai mô xứ xa
Mang người con gái nhỏ quê ta
Để ai dỗi hận mình sơ sẩy
Đem biếu đời mất một cánh hoa

Ai đi ai ở vấn vương lòng
Mơ màng mắt thiếu nữ bên sông
Mang cả hương đồng thơm nội cỏ
Theo cánh cò bay dạt bốn phương...

Hiến Minh
ĐT: 0128 2676 268

Chú thích: (*1) Chúa Nguyễn Hoàng