Sông Ô Lâu từ Mỹ Chánh, về
đến ngã ba cầu Lương Điền, rẻ theo bờ bắc một nhánh, về dọc theo sông đào là
sông mới gọi là sông Ô Giang, một nhánh theo về cầu Vân Trình và hoà chung với
nguồn nước mặn của phá Tam Giang rồi đổ ra Biển Đông theo cửa Thuận An, giáp
ranh giửa hai tỉnh Thừa thiên và Quảng Trị. Tuy cùng uống chung một dòng nước
sông nhưng tiếng phát âm không giống nhau. Ơ bờ bắc các làng như Câu Nhi, Hà Lỗ
thuộc xã Hải Tân, Hưng Nhơn, An Thơ, Phú Kinh thuộc xã Hải Hoà, Hoà Viện thuộc
xã Phong Bình giọng nói đều na ná giọng Huế, riêng làng Văn Quỹ và Văn Trị
thuộc xã Hải Tân là nói giọng Quảng Trị đặc sệt không biết có phải là do tổ tiên
đời trước lúc di cư vào đây mang theo giọng từng địa phương của mình và duy trì
giọng nói cho đến ngày nay không?
Dòng nước sông Ô Lâu từ xưa
rất trong và sạch, mọi sinh hoạt đều dùng nước sông. Từ đầu làng về đến cuối
làng Trông nào cũng có một bến để dân làng sinh hoạt tấp nập cả ngày, riêng
nước dung để ăn, uống bà con tranh thủ đi gánh vào lúc tờ mờ sáng đủ để dùng trong
ngày, nhà nào cũng vậy. Dân Chài lưới cũng nhờ sông Ô Lâu để đánh bắt tôm cá
vào buổi sáng để chiều đưa đi chợ Ưu Điềm bán. Dọc theo hai bên bờ sông rất
nhiều vạn Chài ăn ở họ tập trung thành Phường từ làng Vân Trình tỉnh Thừa Thiên
cho đến Tân Điền thuộc tỉnh Q.Trị và chia ranh giới để đánh bắt hải sản, không
ai xâm phạm lảnh địa của ai.
Riêng làng Văn quỹ tổng chiều
dài khỏang 1.6 km ngày trước cũng có một số hộ làm nghề giăng câu bủa lưới hiện
nay không còn bà con đi xa quê vào miền nam làm ăn sinh sống,ở đầu làng thì rất
sâu đi dọc bờ sông 300 mét là bến đằm những năm 1945 đến nay thường dùng cho
trâu mẹp bến rất cạn ra giửa sông về mùa hè độ một mét phía bên bờ của làng
trạch Phổ xã Phong hoà có lạch sâu hơn nên đò thường chày về bên đó. Năm 1945
đến 1975 dân vạn chài trạch Phổ ở tập trung độ khoảng 15 đến 20 hộ đối diện với
bến Hương sau ngày hoà bình họ di chuyển về ở đối diện với làng Văn Quỹ từ đầu
làng về đến cạnh thôn Tư làng Ưu Điềm. Hiện nay các hộ dân đều xây nhà kiên cố.
Về mùa mưa lủ, họ ở tại chỗ, không di chuyển bằng thuyền qua làng Văn Quỹ tránh
bảo lũ như trước nữa, nghề chính của họ hiện nay là đi khai thác cát sạn còn
lại một số chỉ làm nghề giăng câu bủa lưới.
Nguồn nước sông khi đắp đập
cửa Lác trở thành nước tù đọng không dùng cho ăn uống được mà chỉ giặt rửa và
bơm nước phục vụ cho đồng ruộng mà thôi người dân hai bờ sông Ô Lâu từ Lương
Điền về đến tận làng Vân Trình không biết khi nào mới có được nguồn nước trong
và sạch mà bao đời đã dùng trong mọi sinh hoạt và tăm mát vào mùa hè.
Như nhà thơ Nguyễn Văn Đắc đã
cảm nhận về sông Ô Lâu:
DÒNG SÔNG TUỔI MẸ
Khi mẹ sinh con đã có dòng
sông
Dòng sông ấy đã chảy qua đời
Mẹ
Tháng năm dài con sông dâu bể
Nắng dãi mưa dầm đời Mẹ gian
truân
Từng gánh nước oằn vai, lưng
còng vai nặng
Trún cho con ngụm nước quê
mình
Tắm cho con khí linh của Ô
lâu trường thuỷ
Mẹ hiền ơi muôn thuở ân dày
Khi nắng hạn khi mưa dầm
Khi nước lớn khi nước rong
Nước rong Mẹ còng lưng tát
nước
Nước lớn lụt về Mẹ xuôi ngược
lo toan
Thân cò lặn lội gian nan
Biển sông đời Mẹ cơ man nhọc
nhằn
Mẹ thường bảo quê người chẳng
đặng
Sông nước mình nghĩa nặng
tình sâu
Thuở ấy bên sông ánh trăng
vàng
Mẹ ngồi trải tóc khúc sông
trăng
Sông trăng thổn thức lòng xao
xuyến
Rộn rã bên đời một nét thơ
Cũng từ dạo ấy giửa hai bờ
Bên bồi bên lỡ vấn vương tơ
Ô lâu xanh thẳm mang tình Mẹ
Sông lại đêm về ôm bóng trăng
Bóng trăng xào xạc xao lòng
Mẹ
In dấu duyên tình khúc sông
trăng
Từ tình yêu ấy Mẹ sinh con
Khi Mẹ sinh con đã có dòng
sông
Sông vẫn chảy đời sông bình
lặng
Chỉ dạt dào khi mưa đổ triều
dâng
Mẹ vẫn khổ khi con đông nhà
khó
Có bao giờ được bình lặng như
sông.
(2) Bến Ô lâu ai sầu ai thảm
*
Mang nặng cuộc tình dĩ vảng
mong manh
Chiều về nghiêng bóng đa xanh
Gió lùa sông vắng nắng hanh
sông vàng
Trách chi một chuyến đò ngang
Ai về bên ấy bẽ bàng tình ai
Dặm dài bước một bước hai
Cây đa bến cộ sầu ai ai sầu?
Lững lờ con nước chảy ngang
Con cá bay nhảy rộn ràng mưa
qua
Cá ơi ngọt nước canh cà
Quê hương ấm dịu mặn mà rau
tương
Con trâu mẹp nước bên đường
Miệng cười nhai lại chút
hương cỏ đồng
Ô lâu sông của dòng sông
Dòng sông tuổi Mẹ mặn nồng
tình yêu.
Nguyễn Văn Hiền
Nguồn: Quê hương tôi làng Văn
Quỹ (langvanquy.blogtiengviet.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét